Phật Thuyết Kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân - Phần Bốn
Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trí Nghiêm, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH
BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN
Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trí Nghiêm, Đời Đường
PHẦN BỐN
Tin Thánh giới vô lậu
Chẳng phải pháp đùa bỡn
Đủ giới và chánh định
Đó gọi là kiên tín.
Tin các cõi chúng sinh
Là tánh cõi vắng lặng
Tin được tướng như vậy
Đó gọi là kiên tín.
Tánh không nương chúng sinh
Chính là cõi các pháp
Cõi các pháp như vậy
Tánh ấy khó nghĩ bàn.
Nếu tin được như thế
Thuận theo tướng pháp ấy
Bồ Tát không sợ này
Đó gọi là kiên tín.
Tin thân các chúng sinh
Rốt ráo chẳng chỗ trụ
Tánh chất vốn không vô
Cho nên chẳng nơi chốn.
Chúng sinh là Niết Bàn
Tánh ấy tức là không
Dùng nghĩa đó nêu bày
Tướng Niết Bàn vắng lặng
Nếu tin được như vậy
Là Bồ Tát không sợ
Các chúng sinh như thế
Đều gọi là kiên tín.
A Nan khéo thọ trì
Cũng giảng nói như thế
Nếu ai tin như vậy
Đó gọi là kiên tín.
Các thứ pháp như thế
Cùng vô lượng pháp khác
Phật vì các Bồ Tát
Nói tướng khác nhau này.
Như thế, này A Nan! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh Văn mà nói bậc Đại Bồ Tát là kiên tín.
Lại nữa, này A Nan! Nay ta sẽ vì các chúng sinh ưa thích pháp này nên lại dùng kệ tụng để nói về ý nghĩa tại sao gọi bậc Đại Bồ Tát là kiên tín.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Đều cùng hòa hợp nhất tâm nghe
Ta nói công đức đệ tử Phật
Bố thí, trì giới và tinh tấn
Thân nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ
Tin ưa mong cầu pháp như vậy
Kẻ chẳng tin, tin trí tịnh Phật
Tin được như vậy gọi Bồ Tát
Hóa đạo thế gian không chán mỏi
Tin hiểu các pháp không phân biệt
Tánh ấy vắng lặng do Phật nói
Nếu khéo hiểu được pháp như thế
Đó gọi là Bồ Tát kiên tín.
Tin tri kiến Phật không thể lường
Phát tâm mong cầu trí như thế
Trí của Bậc Đại Nhân vô thượng
Vào lúc nào ta được trí này
Không tin ưa pháp thanh tịnh này
Không vì nhân dục gây nghiệp ác
Dùng tín lực mong cầu pháp ấy
Có đức tin ấy gọi Bồ Tát
Tin các Như Lai dùng pháp thí
Ta cũng phải nên học như thế
Thực hành theo pháp Phật đã nói.
Có đức tin ấy gọi Bồ Tát
Tin thì bỏ được các thức ngon
Voi ngựa vàng bạc và tôi tớ
Vợ con, trai gái, các quyến thuộc
Thành ấp lớn nhỏ và cõi nước.
Cũng bố thí tay chân, thân phần
Chẻ xương lấy tủy không sợ hãi
Tai mũi, hai mắt và cả đầu
Có đức tin ấy là Bồ Tát.
Tin biết thân này không có chủ
Cho nên thực hành được tuệ thí
Cũng thực hành được cả pháp thí
Do nhân duyên đó cầu trí Phật
Tin bỏ được thân vô ngã này
Thấy kẻ đến xin lòng hoan hỷ
Chúng sinh đó bạn tốt của ta
Vì cầu giác ngộ, bỏ thân giả.
Tin pháp như thế nhân Bồ Đề
Dùng tâm thanh tịnh độ thế gian
Nghe pháp, chẳng nghi tri kiến Phật
Có niềm tin ấy gọi Bồ Tát
Biết mắt và tai, mũi vô thường
Lưỡi, thân và ý cũng như thế
Rõ là luống dối không bền chắc
Vì nhân bồ đề thảy nên bỏ.
Thấy chúng sinh khổ không niềm tin.
Giúp họ kính tin hành bố thí
Khởi tâm từ bi thương muôn loài
Đều khiến tin Phật trí tối thượng
Kẻ đắm sáu trần làm điều ác
Giúp họ, hồi tâm hướng trí Phật
Không có tâm ấy: Nhân bồ đề
Tin được bồ đề, không tướng tâm
Thấy các cõi chúng sinh không trí
Chẳng rõ sáu cõi là bình đẳng
Pháp ấy đều đồng tướng pháp giới
Dùng âm thanh nói chẳng thật có
Thấy các chúng sinh còn sinh tử
Ngu tối vô thường cho là thường
Dạy tin các hành là vô thường
Khiến tin hiểu không và vô ngã
Thấy các chúng sinh hành giới ác
Dạy khiến tin giới Phật vô thượng
Các công đức từ tịnh giới định
Có đức tin ấy là Bồ Tát
Thấy các chúng sinh thường biếng nhác
Dạy khiến tin Phật đại tinh tấn
Biết sức tinh tấn tự điều phục
Giữ niềm tin ấy gọi Bồ Tát.
Thấy chúng sinh ngu chấp thọ mạng
Dạy tin ấm thân không thọ mạng
Biết rõ cõi diệt đồng pháp giới
Nếu biết pháp này là thắng tín.
Phân tích thân này không đến, đi
Tuy qua đời khác nghiệp chẳng mất
Các nghiệp nhân thiện ác đã gây
Không bao giờ xa lìa pháp tánh.
Thấy tánh chúng sinh không pháp nương
Cõi ấy cũng đồng các chúng sinh
Pháp Giới bình đẳng chẳng nghĩ bàn
Bồ Tát không sợ tin như vậy
Phật nói tin ấy không có hai
Siêng tu hạnh lành biết các pháp
Cũng nói cho người tin như thế
Không hề tham đắm đối ba cõi.
Tin tánh các chúng sinh như vậy
Không có quyết định chỗ thường trụ
Không, không thể chấp pháp vô tướng.
Tin được pháp này gọi Bồ Tát
Các chúng sinh ấy đều không không.
Cũng không cõi Niết Bàn vắng lặng
Không thể nói có các tánh tướng
Người biết pháp này gọi trì tín.
Thấy các chúng sinh tin thường, đoạn
Dùng pháp vắng lặng mà dẫn dắt
Nên trong ba cõi được tôn xưng
Cũng gọi là Bồ Tát Trì tín
Nếu có niềm tin thù thắng ấy
Pháp tâm không sợ ưa cầu pháp
Pháp ta nếu có người trí tuệ
Hướng về đại chúng giảng nói rộng.
Đã nói các công đức kiên tín
Cùng với các tướng sai biệt khác
Không đắm ba cõi tâm thanh tịnh
Thương xót chúng sinh ruộng phước tot.
Luôn hành Bố thí tự điều phục
Trụ giới thanh tịnh tu nhẫn nhục
Tinh tấn tu định và trí tuệ
Hành hạnh Bồ Tát tâm điều phục
Dùng các trí phương tiện thích hợp
Đưa chúng sinh đến chỗ an ổn
Giúp cho không rơi các đường ác
Có trí như vậy gọi Bồ Tát
Dùng tâm thanh tịnh động Thế Giới
Mặt đất rung chuyển bằng sáu cách
Ánh chiếu trên hoa, Bồ Tát ngồi
Đều nói pháp vắng lặng, không, vô.
Cõi nước phương Đông và phương Nam.
Phương Tây, phương Bắc cũng như vậy
Phương trên, phương dưới và bốn góc.
Đều cùng nói pháp vắng lặng này
Thà bỏ thân mạng, chẳng nghi Phật
Cũng dạy người khác tin trí Phật
Nếu các chúng sinh tin như thế
Phật và hành giả chứng biết được.
Lại nữa, này A Nan! Vì sao Như Lai nói các Đại Bồ Tát là kiên pháp?
A Nan nên biết! Đại Bồ Tát đối với chánh pháp không bao giờ thoái chuyển, thọ trì Phật Pháp, giảng nói cho người khác nghe, không bao giờ hủy phạm. Đối với pháp giới chân như chẳng thể nghĩ bàn thì phải nên được các pháp như vậy, vững tâm thọ trì, không hề yếu đuối.
Đại Bồ Tát quán sát tướng chân thật của các phap, không hề đắm nhiễm, mà đối với pháp này không hề thọ trì, đối với pháp hay phi pháp cũng không dấy tâm đắm nhiễm, ứng theo sự giữ gìn của Như Lai ưa cầu các pháp. Mong cầu rồi thì nhận lãnh, nhận lãnh rồi thì thọ trì, thọ trì rồi thì giảng nói, tâm ý hoan hỷ, nhu hòa, dễ dàng ở chung. Thường thích giảng nói pháp vắng lặng, pháp giới bất động, đạt được tướng chân thật của các pháp.
Đại Bồ Tát khéo léo điều phục đối với các pháp, nhưng không làm tổn hại đến diệu thân thường trụ. Thân ấy thường trụ nên rất nhiệm mầu. Nên biết rằng thân ấy là không mở đầu, không kết thúc, chẳng nhóm họp chẳng ly tan. Nên biết như thế. Các Đức Phật, Thế Tôn vì các Bồ Tát mà giải thích rõ ràng về các pháp đó, Đại Bồ Tát cũng đều đạt được pháp này.
Đại Bồ Tát thấy các pháp thanh tịnh không cấu nhiễm, khéo hiểu các pháp là chỗ không nên vướng mắc, tánh các pháp là không, không thể thấy được. Do không thấy được nên không thể thọ trì. Giảng nói pháp giới không tướng, không tánh, không có lời nói, cũng không thật có, không có suy nghĩ, xa lìa suy nghĩ, tâm không thật có, thể tánh các pháp là vắng lặng, lìa các âm thanh, không có lời nói, chẳng có cảnh giới.
Đại Bồ Tát thường thích thọ trì giảng nói pháp ấy, nhưng tâm không nương tựa vào pháp này, vì các pháp không thật có như thế nên Phật nói các thứ khác nhau cho Đại Bồ Tát nghe, đối với pháp ấy không dấy tưởng về hợp tan, không có các tướng sai biệt. Các pháp như đã nói Đại Bồ Tát đều đạt được, đã đạt được pháp này thì gọi là tánh địa, tánh địa Đại Bồ Tát.
Đại Bồ Tát dù đối với một pháp nhỏ cũng không sinh các tư tưởng đến đi, đã thọ trì pháp chẳng đến đi, mà đối với pháp ấy không sinh ý tưởng thêm, bớt, cũng không tụ tán, nếu thọ trì được các pháp không thêm không bớt, không tụ không tán. Thì các pháp như thế được gọi là kiên pháp.
Đại Bồ Tát thấy thể tánh các pháp không thật có, vì thể tánh các pháp này không thật có nên các vị Đại Bồ Tát ấy được gọi là kiên pháp.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nói kệ rằng:
Đối chánh pháp của Phật
Không bao giờ thoái chuyển
Giữ gìn pháp như vậy
Đó gọi là kiên pháp.
Không hề có hủy phạm
Pháp giới chẳng nghĩ bàn
Đạt được pháp như vậy
Đó gọi là kiên pháp.
Lâu phát tâm thọ trì
Pháp do các Phật nói
Tâm không có yếu hèn
Đó gọi là kiên pháp.
Đối tất cả pháp tánh
Hướng về luôn siêng cầu
Chẳng sinh tâm đắm nhiễm
Đó gọi là kiên pháp.
Chẳng vướng cũng chẳng mắc
Cũng luôn dạy bảo người
Giữ gìn pháp như thế
Đó gọi là trì pháp.
Nhu hòa dễ ở chung
Giảng nói pháp vắng lặng
Không động pháp tánh kia
Đó gọi là trì pháp.
Biết rõ thể các pháp
Đều không có tánh, tướng
Đối pháp này quyết định
Đó gọi là trì pháp.
Cũng không hề hủy tổn
Thân nhiệm mầu thường trụ
Nên biết thân mầu này
Là lấy pháp làm thể,
Thân này không đầu, cuối
Do các pháp hợp thành
Thân này không thêm bớt
Đó gọi là trì pháp.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Niệm Tụng được Lược Ra Trong Kim Cương đỉnh Du Già - Phần Mười Một
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp - Phẩm Tám - Phẩm pháp Hội Nhập Tập Tán
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm địa Chủ - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Trường Bộ - Kinh Phúng Tụng - Phần Hai - Một Pháp