Phật Thuyết Kinh Bảo Lăng Già A Bạt đa La - Phẩm Hai - Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm - Phần Tám

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

BẢO LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống  

PHẨM HAI

PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM  

PHẦN TÁM  

Đại Huệ! Bát Địa Bồ Tát xả lìa tạng thức chẳng những đối với tất cả pháp mỗi mỗi tướng diệt, cho đến tâm, ý, ý thức hư vọng phân biệt của Thanh Văn, Duyên Giác cũng diệt.

Từ Sơ Địa cho đến Thất Địa Bồ Tát sở tu quán hạnh, thấy tất cả các pháp nơi tam giới chỉ do tâm, ý, ý thức sở hiện tâm lượng, lìa ngã và ngã sở v.v... cũng chuyển diệt luôn, chẳng thấy ngoài pháp có mỗi mỗi các tướng.

Ngoại đạo ở nơi tự tâm khởi vọng tưởng phân biệt, hư vọng tu tập, thấy ở ngoài pháp có tướng để đắc, thì đọa mỗi mỗi tướng ngoài tánh.

Ấy là hai thức chấp trước của phàm phu ngoại đạo, dùng tự tâm nhiếp tự tâm, thấy có pháp năng nhiếp sở nhiếp bèn nói tất cả đoạn diệt, chẳng biết do tập khí hư ngụy từ vô thỉ sở huân mà đoạn diệt chủng tánh Phật.

Đại Huệ! Bát Địa Bồ Tát sở đắc tam muội với Thanh Văn, Duyên Giác dù hơi giống nhau, nhưng Bồ Tát có Chánh Giác gia trì, nên dù có sự vui của tam muội mà chẳng nhập Niết Bàn.

Nếu chẳng có Chánh Giác gia trì thì như nhị thừa tự yên ổn, chẳng thể trọn vẹn bằng đại Như Lai, mà tự chứng Niết Bàn, xả bỏ tất cả chúng sanh, chẳng vì chúng sanh thuyết pháp hữu vi để dần dần dẫn dắt chúng sanh vào tri kiến Như Lai thì Phật chủng ấy phải đoạn dứt.

Chư Phật Thế Tôn vì muốn khiến nhị thừa nối tiếp Phật Chủng, nên hiển thị vô lượng công đức bất khả tư nghì của Như Lai, nhưng hàng Thanh Văn, Duyên Giác ham trụ sự vui của tam muội chẳng chịu hồi tâm tiến lên đại thừa, lại tự cho là đã chứng Niết Bàn.

Đại Huệ! Ta sở dĩ nhấn mạnh bộ phận Thất Địa là muốn hành giả khéo tu phương tiện, xa lìa các tướng tâm, ý, ý thức và kiến chấp ngã, ngã sở, nhiếp thọ nhân vô ngã, pháp vô ngã và biện tài tứ vô ngại, đắc sức quyết định nơi tam muội môn, từ những đạo phẩm tương tục từ trước đến đây lần lượt tiến lên Bát Địa cho đến Thập Địa.

Vì e sợ các Bồ Tát chẳng khéo liễu tri tự tướng cộng tướng và sự thứ lớp tương tục của chư địa mà đọa nơi ác kiến của ngoại đạo, nên kiến lập thứ lớp của chư địa.

Đại Huệ! Ngoại trừ tự tâm hiện lượng, thật chẳng có pháp sanh pháp diệt, chư địa thứ lớp tương tục và đoạn đứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc rơi vào tam giới, chỉ vì phàm phu chẳng giác ngộ, nên ta và Chư Phật thuyết chư địa thứ lớp tương tục và thuyết pháp đoạn dứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc nơi tam giới.

Lại nữa, Đại Huệ! Bồ Tát Đệ Bát Địa vì muốn diệt ham trụ sự vui nơi tam muội của Thanh Văn, Duyên Giác, biết họ chẳng khéo giác tự tâm hiện lượng của tự tướng cộng tướng, bị rươu tập khí say mê sở chướng, đọa kiến chấp nhiếp thọ nhân pháp vô ngã, vọng tưởng cho là Niết Bàn, chẳng phải trí huệ tịch diệt của tự giác.

Đại Huệ! Bồ Tát thấy sự vui của tam muội môn tịch diệt, do bổn nguyện đại bi thành tựu thương xót chúng sanh, phân biệt liễu tri thập vô tận cú, chẳng trụ vọng tưởng Niết Bàn.

Vì bậc họ biết vốn đã Niết Bàn, nên vọng tưởng chẳng sanh, lìa năng nhiếp sở nhiếp của vọng tưởng, giác liễu tự tâm hiện lượng nơi tất cả các pháp, vì vọng tưởng chẳng sanh nên chẳng đọa nơi tâm, ý, ý thức và tướng vọng tưởng chấp trước ngoài tánh của tự tánh.

Đối với Phật pháp chẳng có cái nhân bất sanh, là tùy theo trí huệ mà sanh, nên chứng đắc Như Lai tự giác địa. Như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, nhưng chưa qua đã thức, thức rồi suy nghĩ là chánh hay tà, hoặc phi chánh phi tà.

Người ấy do tưởng nhớ mỗi mỗi tập khí của kiến văn giác tri từ vô thỉ, nên ở mỗi mỗi hình xứ đọa tướng hữu và vô, thành có giấc mơ hiển hiện nơi tâm, ý, ý thức nên suy nghĩ như thế.

Đại Huệ! Như thế, Đại Bồ Tát nơi Đệ Bát Địa thấy chỗ vọng tưởng sanh, từ Sơ Địa tiến đến Thất Địa, thấy tất cả pháp như huyễn, dùng phương tiện độ thoát cái tâm vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp xong, dùng phương tiện của Phật Pháp khiến người chưa chứng đắc được chứng đắc.

Đại Huệ! Đây là phương tiện chẳng đoạn đứt nơi Niết Bàn của Bồ Tát, lìa tâm, ý, ý thức, đắc vô sanh pháp nhẫn.

Đại Huệ! Nơi Đệ Nhất Nghĩa chẳng có thứ lớp tương tục, nói vọng tưởng vô sở hữu là pháp tịch diệt.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Tam thế Chư Phật thuyết,

Tâm lượng vô sở hữu.

Bậc Trụ Địa Bồ Tát,

Được đến địa vị Phật.

Tâm lượng nơi tạng thức,

Thất Địa chưa diệt sạch.

Bát Địa mới diệt hết.

Hai địa Thất và Bát,

Đều gọi là Trụ địa.

Phật địa gọi tối thắng,

Trí tự giác trong sạch.

Chỗ tự tại tối thắng,

Chiếu soi như lửa hồng,

Quang minh khắp nơi nơi,

Sáng lòa chẳng chói mắt.

Giáo hóa lúc hiện tại,

Hoặc giáo hóa lúc trước,

Đến đây diễn nhất thừa,

Đều vào Địa Như Lai.

Nhất thừa lập chư địa,

Thật thì chẳng thứ lớp.

Thập Địa như Sơ Địa,

Sơ Địa như Bát Địa,

Cửu Địa như Thất Địa,

Thất Địa như Bát Địa,

Nhị Địa như Tam Địa,

Tứ Địa như Ngũ Địa,

Tam Địa như Lục Địa,

Thông nhau chẳng thứ lớp.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là thường hay vô thường?

Phật bảo Đại Huệ: Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phi thường phi phi thường, vì cả hai đều có lỗi. Nếu nói thường thì có cái lỗi năng tác, tất cả ngoại đạo đều nói thường có kẻ tác, thường do tác mà thành thì chẳng phải chân thường.

Như Lai đối với chân thường còn chẳng thấy có tướng thường để đắc, huống là do tạo tác mà thành thường ư?

Nên nói có lỗi. Nếu nói Như Lai vô thường thì có cái lỗi sở tác vô thường. Ngoại đạo cho ngũ ấm là sở tác, nhưng tướng năng thấy và sở thấy của ngũ ấm đều chẳng tự tánh, rốt cuộc phải đoạn diệt, mà Như Lai thì chẳng đoạn diệt.

Đại Huệ! Tất cả sở tác đều vô thường, như cái bình, y áo v.v... tất cả đều có cái lỗi vô thường. Thế thì tất cả công đức phương tiện dùng để độ chúng sanh của nhất thiết trí sở tác đều thành vô nghĩa, vì có sở tác.

Nếu có nghĩa thì tất cả sở tác của thế gian đều đồng như sở tác của Như Lai, vì chẳng có tánh sai biệt vậy. Cho nên Như Lai nói phi thường phi vô thường.

Lại nữa, Đại Huệ! Như Lai chẳng phải như hư không thường. Nếu như hư không thường thì thành ngoan không vô tri, mà tự giác thánh trí thì đầy đủ linh giác. Vậy nói như hư không thường thì có cái lỗi vô nghĩa.

Đại Huệ! Ví như hư không phi thường phi vô thường, lìa thường, vô thường, nhất, dị đồng, chẳng đồng, nên bất khả thuyết, cho nên Như Lai phi thường.

Lại nữa, Đại Huệ! Nếu Như Lai là vô sanh thường thì như sừng của thỏ, ngựa cũng là vô sanh thường, vậy thì pháp phương tiện thành vô nghĩa, vì có cái lỗi vô sanh thường, nên Như Lai phi thường.

Lại nữa, Đại Huệ! Còn có việc khác biết Như Lai là thường.

Tại sao?

Vì trí sở đắc thường nên Như Lai thường.

Đại Huệ! Như Lai hoặc ra đời hoặc chẳng ra đời, pháp cố định thường trụ. Thanh Văn, Duyên Giác, Chư Phật Như Lai thường trụ chẳng gián đoạn, cũng chẳng phải vô tri như hư không thường trụ, cũng chẳng phải phàm phu có thể hiểu biết.

Đại Huệ! Trí sở đắc của Như Lai là do Bát Nhã sở huân, chẳng như chỗ tâm ý, ý thức của ngoại đạo kia do ấm, giới, nhập sở huân.

Đại Huệ! Tất cả tam giới đều do vọng tưởng chẳng thật sở sanh, Như Lai thì chẳng từ vọng tưởng chẳng thật sanh.

Đại Huệ! Vì hai pháp đối đãi nên có thường và vô thường, chẳng phải pháp bất nhị, pháp bất nhị là tịch tịnh, vì tất cả pháp chẳng có hai tướng sanh. Cho nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phi thường phi vô thường.

Đại Huệ! Nếu sanh ngôn thuyết phân biệt thì có cái lỗi thường và vô thường. Nếu cái giác phân biệt diệt thì xa lìa kiến chấp thường, vô thường của phàm phu.

Kiến chấp phàm phu hư vọng phân biệt mỗi mỗi pháp thường, pháp vô thường, phi thường phi vô thường, huân tập theo pháp sanh diệt, dẫu có trí huệ cũng chẳng thể tịch tịnh.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Nói đủ thứ vô nghĩa,

Sanh lỗi thường, vô thường.

Từ đó kiến lập tông,

Có nhiều nghĩa hỗn tạp.

Nếu chẳng sanh phân biệt,

Lìa hẳn thường, vô thường.

Đẳng quán lượng tự tâm,

Ngôn thuyết bất khả đắc.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn vì chúng con thuyết sự sanh diệt của ấm, giới, nhập, nếu những việc ấy chẳng có tự tánh ngã thì ai sanh ai diệt?

Phàm phu là y nơi sanh diệt, chẳng biết Niết Bàn, chẳng thể hết khổ.

Phật bảo Đại Huệ: Lành thay! Hãy chú ý nghe, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ: Tạng của Như Lai là hiển bày cái nhân thiện và bất thiện, phổ biến tạo ra các loài chúng sanh, ví như nhà ảo thuật biến hiện các loài người huyễn hóa, lìa ngã và ngã sở.

Ngoại đạo chẳng biết do ba duyên căn, cảnh, thức hoà hợp phương tiện sanh khởi, lại chấp trước có kẻ tạo tác, ấy là do ác kiến tập khí hư ngụy từ vô thỉ sở huân, gọi là tạng thức, do đó sanh vô minh trụ địa, cùng với thức thứ bảy sanh pháp nhiễm tịnh, như biển nổi làn sóng, thường khởi chẳng dứt.

Nếu lìa lỗi vô thường, và lìa nơi thần ngã chấp thường luận của ngoại đạo thì tự tánh vô nhiễm, bổn lai trong sạch. Còn các thức kia thì có sanh có diệt, nơi ý thức niệm niệm tạo cái nhân vọng tưởng chẳng thật, chấp lấy các cảnh giới đủ thứ hình xứ danh tướng, chẳng biết sắc tướng do tự tâm sở hiện, chẳng lìa khổ vui, chẳng đến giải thoát, bị danh tướng trói buộc, tham sanh rồi sanh tham.

Nếu nhân duyên các căn nhiếp thọ diệt thì tương tục chẳng sanh, nếu lìa tự tâm vọng tưởng, chẳng thọ khổ vui, hoặc nhập diệt tận định, hoặc nhập Cõi Tứ Thiền.

Hoặc khéo tu Chân Đế giải thoát, chỉ chứng lý thiên không, người tu cho là giải thoát, ham trụ Niết Bàn, chẳng lìa chẳng chuyển, gọi là Như Lai Tạng Thức Tạng là Tạng thức trong Như Lai Tạng.

Ngoại đạo do thức thứ bảy chấp thức thứ tám làm thần ngã thì lưu chuyển chẳng diệt, do đó các thức phan duyên, chẳng phải cảnh giới tu hành của Thanh Văn, Duyên Giác, vì chẳng giác được vô ngã, có tự tướng cộng tướng nhiếp thọ, sanh ấm giới nhập. Nếu thấy tánh Như Lai Tạng thì năm pháp tự tánh và nhân pháp vô ngã đều diệt.

Từng địa thứ lớp tương tục tiến lên, chẳng bị kiến chấp ngoại đạo lay động, ấy gọi là trụ Bồ Tát Bất Động Địa, chứng đắc mười thứ đạo môn an vui của tam muội, mà tự nguyện chẳng thọ môn vui của tam muội, do huệ giác của tam muội sở trì.

Quán sát Phật pháp bất khả tư nghì và thật tế hướng lên tự giác Thánh Trí, chẳng cùng lối tu hành của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác và ngoại đạo, đắc mười thứ chủng tánh Hiền Thánh, lìa tam muội hạnh, vào nơi Như Lai ý sanh thân của trí thân.

Cho nên, Đại Huệ! Đại Bồ Tát muốn cầu thắng tiến, nên tẩy sạch danh tướng Như Lai Tạng và thức tạng.

Đại Huệ! Nếu chẳng có danh tướng thức tạng và Như Lai Tạng thì chẳng có sanh diệt, nhưng các bậc phàm phu Hiền Thánh đều có sanh diệt. Người tu hành tự giác Thánh Trí chẳng xả phương tiện mà hiện pháp lạc trụ.

Đại Huệ! Cái Như Lai Tạng và thức tạng này là do tâm tưởng của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác sở thấy, dù tự tánh thanh tịnh, nhưng bị khách trần che lấp, vẫn thấy bất tịnh, chẳng phải sự thấy của Như Laị.

Đại Huệ! Cảnh giới hiện tiền của Như Lai, cũng như xem trái Yêm Ma La trong bàn tay vậy.

Đại Huệ! Ta ở nơi nghĩa này dùng thần lực kiến lập, khiến Thắng Man Phu Nhân và Chư Bồ Tát trí sáng đầy đủ v.v... diễn thuyết tuyên dương danh tướng Như Lai Tạng với thức tạng, và sự cùng sanh của bảy thứ thức kia.

Vì hàng Thanh Văn chấp trước, còn thấy có nhân, pháp vô ngã, nên Thắng Man Phu Nhân thừa Phật oai thần thuyết cảnh giới Như Lai chẳng phải cảnh giới của nhị thừa và ngoại đạo.

Đối với Như Lai Tạng và thức tạng, chỉ có Phật và bậc Bồ Tát y nghĩa lợi trí có cảnh giới trí huệ này. Cho nên ngươi và các Đại Bồ Tát nơi Như Lai Tạng và thức tạng nên siêng tu học, chớ nên chỉ nghe biết được cho là đủ.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Như Lai Tạng thâm sâu,

Mà cùng với bảy thức,

Sanh hai thứ nhiếp thọ,

Bậc trí nên xa lìa.

Vô thỉ huân tập khí,

Như tượng hiện tâm gương.

Người quán sát như thật,

Hữu sự như vô sự.

Kẻ ngu quán mặt trăng,

Quán chỉ ngón tay chẳng quán trăng.

Chấp trước theo văn tự.

Chẳng thấy nghĩa chân thật.

Tâm làm nghề ảo thuật,

Ý là người giúp nghề.

Ngũ thức bạn diễn viên,

Vọng tưởng là khán giả.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết năm pháp tự tánh thức, hai thứ vô ngã và cứu cánh phân biệt tướng, khiến con và các Đại Bồ Tát nơi tất cả địa thứ lớp tương tục phân biệt pháp này, vào tất cả Phật Pháp. Nếu vào được tất cả Phật Pháp thì đến Tự Giác Địa của Như Lai.

Phật bảo Đại Huệ: Hãy lắng nghe và khéo ghi nhớ.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ: Nay ta thuyết năm pháp tự tánh thức, hai thứ vô ngã và phân biệt trí tướng.

Năm pháp tự tánh là: Danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như. Nếu người tu hành tu theo pháp này thì vào tự giác thánh trí của Như Lai, lìa những kiến chấp đoạn thường hữu vô v.v..., hiện tiền trụ nơi chánh định, hiện thọ pháp lạc.

Đại Huệ! Nếu chẳng biết năm thứ tự tánh thức, hai thứ vô ngã và ngoài tánh tự tâm hiện, là phàm phu vọng tưởng, chẳng phải Thánh Hiền.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thế nào là sanh khởi vọng tưởng phàm phu, chẳng phải Thánh Hiền?

Phật bảo Đại Huệ: Phàm phu chấp trước danh tướng thế tục, tùy tâm lưu chuyển. Lúc lưu chuyển thì hiện đủ thứ tướng mạo, đọa kiến chấp ngã và ngã sở, chấp trước hy vọng diệu sắc rồi thành vô tri, bị vô tri chướng ngại nên sanh nhiễm trước.

Đã nhiễm trước thì tham, sân, si sanh nghiệp tích tụ, đã tích tụ thì sanh vọng tưởng tự trói, như con tằm nhả tơ làm kén tự trói vậy. Chúng sanh đọa biển sanh tử, dạo nơi đồng hoang lục đạo, như bánh xe xoay chuyển chẳng ngừng.

Vì họ ngu si, chẳng biết từ tự tâm vọng tưởng sanh khởi các tướng sanh, trụ, diệt, như huyễn hóa, như bụi trần lăng xăng, như mặt trăng trong nước, chẳng do tự tại, thời tiết, vi trần, sự thắng diệu mà sanh.

Nói danh, là phàm phu ngu si tùy theo dòng nước danh tướng sanh khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật, đặt ra đủ thứ tên gọi, ấy gọi là danh.

Nói tướng, là do nhãn thức chiếu soi gọi là sắc. Nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý, ý thức phân biệt gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp. Ấy gọi là tướng.

Nói vọng tưởng, là giả lập nhiều danh để hiển thị các tướng, do vọng tưởng suy nghĩ, vọng lập các tên gọi: Voi, ngựa, xe cộ, nam nữ v.v... gọi là vọng tưởng.

Nói chánh trí, là tìm danh tướng bất khả đắc, cũng như khách đi đường chẳng có sở trụ. Các thứ phân biệt chẳng sanh, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đọa nơi tất cả ngoại đạo Thanh Văn, Duyên Giác, ấy gọi là chánh trí.

Lại nữa, Đại Huệ! Nói như như, là Đại Bồ Tát dùng chánh trí này chẳng lập danh tướng, cũng chẳng phải không lập danh tướng, lìa bỏ kiến lập với phủ định, và nhị kiến đối đãi thì danh tướng chẳng sanh, gọi là như như.

Đại Huệ! Đại Bồ Tát trụ nơi như như rồi, đắc cảnh giới vô sở hữu, chứng đắc Bồ Tát Hoan Hỷ Địa. Đắc Bồ Tát Hoan Hỷ Địa rồi, lìa hẳn ác kiến cuả tất cả ngoại đạo, chánh thức trụ bậc xuất thế gian, pháp tướng thành thục, phân biệt tướng huyễn của tất cả pháp.

Tự giác pháp tướng lìa các vọng tưởng, thấy tánh của các tướng khác biệt, thứ lớp tiến lên pháp Vân Địa. Giữa lúc đó sức tam muội thần thông được mở mang khắp nơi, chứng đắc Như Lai Địa.

Đắc Như Lai Địa rồi, viên chiếu hiển thị đủ thứ biến hóa để thành tựu cho chúng sanh mà chẳng trụ nơi chúng sanh, như bóng trăng trong nước, nên cứu cánh đầy đủ Thập Vô Tận Cú, vì mỗi mỗi chúng sanh phân biệt thuyết pháp. Pháp thân lìa ý sở tác này, gọi là Bồ Tát nhập như như sở đắc.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thế nào?

Là ba thứ tự tánh gom vào năm pháp ư?

Hay là mỗi mỗi có tự tướng ư?

Phật bảo Đại Huệ: Ba thứ tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngã thảy đều gom vào năm pháp.

Đại Huệ! Nói danh và tướng là vọng tưởng tự tánh.

Đại Huệ! Nếu dựa theo vọng tưởng sanh tâm, tâm pháp, gọi là đồng thời sanh, như ánh sáng mặt trời đồng thời chiếu soi mỗi mỗi tướng sai biệt. Do thức thứ sáu phân biệt, thức thứ bảy chấp trì duyên khởi lẫn nhau, gọi là duyên khởi tự tánh.

Đại Huệ! Nói chánh trí như như là tánh chẳng thể hoại, gọi là thành tự tánh.

Lại nữa, Đại Huệ! Vọng tưởng tự tâm hiện tám thứ thức khác nhau, ấy là: Tạng thức thức thứ tám, ý thức thứ bảy, ý thức thức thứ sáu, và tiền ngũ thức nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, nếu diệt hẳn tướng ngã, ngã sở, năng nhiếp sở nhiếp và tất cả vọng tưởng chẳng thật, thì hai thứ vô ngã sanh khởi.

Cho nên, Đại Huệ! Nói năm pháp này là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai, tự giác thánh trí, chư địa thứ lớp tương tục, tất cả Phật Pháp thảy đều bao gồm trong đó.

Lại nữa, Đại Huệ! Nay ta tóm tắt lại năm pháp tướng, danh, vọng tưởng, như như và chánh trí. Nghĩa tướng là xứ sở, hình tướng, sắc tượng v.v... hiện ra tướng khác biệt, gọi là tướng.

Nghĩa danh là theo tướng đặt tên, như bình tên là bình, y áo tên là y áo... chẳng phải cái khác, gọi là danh. Nghĩa vọng tưởng là giả lập nhiều tên để hiển thị các tướng, như phân biệt bình, y áo v.v... hiện trong tâm, tâm pháp, gọi là vọng tưởng, nghĩa như như là danh này tướng kia chẳng có tri giác, nơi các pháp cũng chẳng thể lần lượt sanh nhau, lìa vọng tưởng chẳng thật, cuối cùng bất khả đắc, ấy gọi là như như.

Nghĩa chánh trí là sự quyết định chân thật, cứu cánh tự tánh bất khả đắc, chỉ là như như, ta và Chư Phật tùy thuận chỗ nhập của chúng sanh phổ biến thuyết pháp, giả lập phương tiện, hiển bày nghĩa như thật cho họ, khiến họ theo đó đi vào Chánh Giác, biết pháp phi đoạn phi thường, vọng tưởng chẳng khởi, tùy thuận tự giác thánh trí. pháp tướng này tất cả ngoại đạo và Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể đắc, ấy gọi là chánh trí.

Đại Huệ! Gọi chung là năm pháp. Thật ra, ba thứ tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngã, tất cả Phật Pháp thảy đều gom vào trong năm pháp này.

Cho nên Đại Huệ! Nên theo phương tiện tu học, cũng dạy người khác theo đúng chánh pháp này, chớ theo pháp khác.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Năm pháp ba tự tánh

Cùng với tám thứ thức

Và hai thứ vô ngã

Thảy nhiếp trong đại thừa

Tướng, danh và vọng tưởng

Thuộc về pháp thế gian

Như như cùng chánh trí

Thuộc pháp xuất thế gian

Hai tánh chẳng thể hoại

Nên gọi thành tự tánh.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết nghĩa cú, hằng sa Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng thuyết như thế.

Thế nào?

Thế Tôn! Là tất cả như thuyết tín thọ ư?

Hoặc còn có nghĩa khác ư?

Cúi xin Như Lai rủ lòng thương xót mà giải thích cho.

Phật bảo Đại Huệ: Chớ nói như thuyết tín thọ. Số lượng của tam thế Chư Phật chẳng phải như hằng sa.

Tại sao?

Vì siêu việt hy vọng của thế gian, dùng thí dụ chẳng thể thí dụ. Vì phàm phu ngoại đạo vọng tưởng chấp trước, nuôi dưỡng ác kiến, đọa nơi sanh tử vô cùng tận, vì muốn khiến họ nhàm chán sanh tử luân hồi, siêng năng tinh tấn tu hành giải thoát, nên giả lập phương tiện nói với họ rằng Chư Phật dễ thấy, chẳng Như Ưu Đàm Bát Hoa khó gặp. Như lập ra hóa thành, chỉ là phương tiện để thỏa mãn sự mong cầu của họ.

Có khi quán theo căn cơ của người thọ giáo hóa, lại nói rằng: Phật rất khó gặp như hoa Ưu Đàm. Thật ra hoa Ưu Đàm chẳng ai đã thấy, nay thấy và sẽ thấy, mà Như Lai thì khắp thế gian thảy đều được thấy. Chẳng vì kiến lập tự thông mà nói Như Lai ra đời như hoa Ưu Đàm.

Đại Huệ! Kiến lập tự thông, siêu việt hy vọng của thế gian, phàm phu chẳng thể tin nổi, cảnh giới tự giác thánh trí chẳng có gì để thí dụ, vì chân thật Như Lai siêu việt tướng sở thấy biết của tâm, ý, ý thức, nên chẳng thể thí dụ.

Đại Huệ! Nhưng ta nói thí dụ Phật như hằng sa chẳng có lỗi lầm.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần