Phật Thuyết Kinh đồng Tử Thiện Tư - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẬT THUYẾT
KINH ĐỒNG TỬ THIỆN TƯ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẦN BA
Ta không đắc các pháp
Chỗ nói lại cũng không
Ta xưa ngồi Đạo Tràng
Không một trí có chứng.
Như vậy ngã, trí này
Bồ đề không thủ đắc
Bồ đề và Đạo Tràng
Cả hai không người chứng.
Chúng phàm phu phân biệt
Chư Phật nói các pháp
Đây là mượn danh từ
Chỗ Chư Phật thâm diệu.
Thâm diệu và Chư Phật
Đó là cảnh giới ma
Không nghe Kinh Điển này
Phật Thế Tôn đã nói.
Cùng đều không biết vị
Chỗ lợi ích các pháp
Bồ Tát hành khổ hạnh
Hạnh ấy vì không biết.
Cho rằng Phật, bồ đề
Cả hai không thể thấy
Suy nghĩ như vậy rồi
Vọng ngôn cho: Phật nói.
Khen có các cảnh giới
Dựa vào sinh chấp trước
Đã có chỗ nhiễm chấp
Nên cũng không thấy ta.
Nếu có các chúng sinh
Thành tựu trí thâm diệu
Tất cả cùng nói lớn:
Chư Phật không nghĩ bàn.
Cho nên, này Thiện Tư!
Muốn biết pháp sâu xa
Nên dụng tâm tinh tấn
Liền rõ pháp chân thật.
Pháp ấy thật vô ngại
Nên gọi là thâm diệu
Lúc nói điều như vậy
Gọi là không thủ đắc.
Chúng sinh thấy điên đảo
Cảnh giới đây khác kia
Không do cầu thiền định
Có thể rõ thật nghĩa.
Tam muội phi tam muội
Trong không, không thủ được
Chẳng phải trí cảnh giới
Vô trí cũng như vậy.
Tuy khiến biết tế kia
Cũng không trí cảnh giới
Pháp này từ duyên có
Thâm diệu tức nên vào.
Nếu có vui tịch tĩnh
Thì không có đây, kia
Nếu tâm thường tín lạc
Chính chốn nói Kinh này.
Cõi Phật không phải một
Xưa trồng các căn lành
Trong nhiều chỗ Chư Phật
Mới có thể thọ trì.
Đức Thế Tôn nói kệ rồi bảo Đồng Tử Thiện Tư: Này Đồng Tử Thiện Tư! Vì ý nghĩa ấy nên tất cả chư Đại Bồ Tát cần phải mặc áo giáp như vậy. Ở trong tất cả chốn sợ hãi Kinh của thế gian không nên sinh tâm lo âu sợ hãi mà phải phát tâm mặc áo giáp như vậy.
Khi ấy, Đồng Tử Thiện Tư liền bạch Phật: Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Con tin như vậy, nhưng trong thế gian lại có chỗ không tin.
Đức Thế Tôn lại bảo Đồng Tử Thiện Tư: Có các Đại Bồ Tát hành pháp sâu xa, có tướng như vậy, có điềm lành như vậy, có hình ảnh như vậy. Tất cả họ là các bậc trượng phu thiện, quán sát trong thế gian không có các pháp hơn kém.
Đã thấy tất cả các pháp đều bình đẳng không có hơn kém, biết như vậy rồi nên tâm không sợ, không hãi, không kinh. Đoạn tất cả các pháp, biết như vậy rồi mà tâm không sợ hãi.
Không đoạn tất cả các pháp, biết như vậy rồi mà không sợ hãi.
Biết có tất cả các pháp như vậy rồi mà không sợ hãi.
Biết không có tất cả các pháp như vậy rồi ma không sợ hãi.
Biết tất cả các pháp hợp như vậy rồi mà không sợ hãi.
Biết tất cả các pháp tan rã như vậy rồi mà không sợ hãi.
Biết tất cả các pháp hòa hợp như vậy rồi mà không sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không hòa hợp như vậy rồi mà không sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không thích ý như vậy rồi mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không phải không vừa ý như vậy rồi mà không hề sợ hãi.
Biết sự nhớ nghĩ về tất cả cac pháp như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết không nhớ nghĩ về tất cả các pháp như vậy mà không sợ hãi.
Biết sự tạo tác nơi tất cả các pháp như vậy rồi mà không sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không tạo tác như vậy rồi mà không sợ hãi.
Biết cảnh giới nơi tất cả các pháp như vậy mà không sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không phải cảnh giới như vậy mà không sợ hãi.
Biết về sự hoan hỷ nơi tất cả các pháp như thế mà không sợ hãi.
Biết sự không hoan hỷ nơi tất cả các pháp như thế mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp của thế đế như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp nơi phi thế đế như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp vắng lặng như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không vắng lặng như vậy mà không sợ hãi.
Biết về sự hiểu rõ tất cả các pháp như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết về sự không hiểu rõ tất cả các pháp như thế mà không sợ hãi.
Biết về sự trì giới nơi tất cả các pháp như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết về sự phá giới nơi tất cả các pháp như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết sự sáng rõ nơi tất cả các pháp như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết sự không sáng rõ nơi tất cả các pháp như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp có tên như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không tên như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết ra khỏi tất cả các pháp như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết không ra khỏi tất cả các pháp như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp lo sợ như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không lo sợ như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp sinh như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không sinh như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp tử như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp bất tử như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp là bồ đề như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không phải là bồ đề như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp là Niết Bàn như vậy mà không hề sợ hãi.
Biết tất cả các pháp không là Niết Bàn như vậy mà không hề sợ hãi.
Lúc có thể nói pháp như vậy đó gọi là Bồ Tát không sợ, không khiếp, không kinh hãi.
Đức Thế Tôn nói lời như vậy rồi, muốn nêu rõ lại nghĩa ấy nên nói kệ:
Tất cả pháp không có
Chân như không mê lầm
Vì không có các pháp
Tướng kia liền vắng lặng.
Các pháp không hơn kém
Đây, kia đều là không
Vì tất cả pháp không
Chân thật cũng là không.
Các pháp có hơn kém
Đây, kia cũng đều không
Các pháp đã đều không
Thì không có tranh cãi.
Tất cả pháp đã không
Bản tánh sao có tánh
Vì tánh ấy không có
Sao lại có hoại diệt?
Các pháp có đoạn sao?
Người trí không nghĩ vậy
Chỉ giả có tên đoạn
Tìm chỗ đoạn không được.
Muốn đoạn tất cả pháp
Vi tế tìm không thấy
Chút ít và vô số
Các pháp đều không có.
Các pháp là không có
Đó cũng là ngôn thuyết
Trong kia không như vậy
Chỉ thị hiện trong ấy.
Tất cả pháp vô hình
Chỉ có hiện trong tướng
Có có và không có
Tất cả đều giả danh.
Tất cả pháp hòa hợp
Thị hiện không hòa hợp
Chân như không hòa hợp
Rốt ráo không có vật.
Các pháp không hòa hợp
Không tạo và không diệt
Như vậy cũng không đắc
Các pháp mỗi mỗi không.
Các pháp không thủ đắc
Tất cả tiền tế không
Vì bản tế đã không
Nên gọi là thật tế.
Tất cả pháp hoan hỷ
Hoan hỷ không thủ đắc
Đã không có các pháp
Điều ấy không thể nói.
Các pháp không hoan hỷ
Cả hai cũng đều không
Trong chân như không vật
Đó là tướng thâm diệu.
Tất cả pháp không hiềm
Trong chân như không ngã
Vì chân như không có
Nên không có chỗ hiềm.
Không tán thán Niết Bàn
Pháp ấy không thủ đắc
Vì các pháp không có
Nên gọi là Niết Bàn.
Các pháp không có tên
Trong chân như thị hiện
Đó là giả danh nói
Nên gọi là suy nghĩ.
Các pháp không suy nghĩ
Pháp này không Định xứ
Cho nên không chúng sinh
Đó là thể các pháp.
Tất cả pháp như huyễn
Huyễn ấy không thủ đắc
Vì các pháp bất đắc
Nói các hành hữu vi.
Các pháp đã vô vi
Thể chân như đây, kia
Không có chốn các pháp
Nên nói không biên vực.
Tuy nói có cảnh giới
Cảnh giới thật không có
Vì phàm phu mà nói
Nên gọi là cảnh giới.
Các cảnh giới hư vọng
Nên nói không cảnh giới
Nói không có cảnh giới
Là chân tướng cảnh giới.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Cam Lộ
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Phật đảnh Quảng Tụ đà La Ni - Phẩm Mười Chín - Phẩm Chú Sư Tự Trước Chú Tác
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thất đạo Phẩm - Phần Hai