Phật Thuyết Kinh Mục Kiền Liên Hỏi Năm Trăm Tội Khinh Trọng Trong Giới Luật - Văn Sám Hối Sau Chín Mươi Ngày Kiết Hạ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Pháp Thiên, Đời Tống
PHẬT THUYẾT KINH MỤC KIỀN LIÊN
HỎI NĂM TRĂM TỘI KHINH TRỌNG
TRONG GIỚI LUẬT
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Pháp Thiên, Đời Tống
VĂN SÁM HỐI SAU
CHÍN MƯƠI NGÀY KIẾT HẠ
Đại Đức Tăng lắng nghe!
Nếu Tăng đúng thời mà đến, Tăng hòa hợp thuận nghe. Tăng sai con là… vì đại chúng tác pháp sám hối sau chín mươi ngày an cư. Như Lai đã thụ pháp an cư thì Tỳ Kheo cũng nên như vậy. Từ khi bắt đầu thụ an cư, đến nay việc an cư kiết hạ đã xong. Trong ba tháng con phạm nhiều lỗi lầm. Lỗi lầm đó chính là phạm các Thiên Giới.
Trừ hai thiên: Bốn Ba la di và mười ba Tăng tàn là không phạm, còn các thiên khác thì chưa hẳn không phạm. Vì vậy cuối hạ, Đức Thế Tôn mới nhóm hòa hợp Tăng để chỉ dạy. Nay con nghĩ cũng nên cùng Chư Tăng tỏ bày rõ những điều đã sai phạm. Xin Tăng chấp nhận cho con tác pháp sám hối.
Do trong chín mươi ngày qua, con không nương vào đại định của Thế Tôn, không có trí tuệ rộng lớn của Thế Tôn, không y theo giới cấm của Thế Tôn, nên phạm nhiều lỗi lầm, không có trí tuệ rộng lớn của Thế Tôn, không nương giới cấm của Thế Tôn nên phạm tội, không nương giới cấm của Thế Tôn nên phạm tội, không có trí tuệ rộng lớn của Thế Tôn nên quên mất nhiều điều mà giáo pháp đã chỉ dạy, không có đại định của Thế Tôn nên phạm tội loạn ý.
Hoặc nghĩ đến dâm mà không làm việc dâm, nghĩ đến trộm mà không có hành vi trộm, nghĩ đến giết hại mà không có hành vi giết hại, nghĩ đến lừa dối mà không làm những việc lừa dối, nghĩ đến các pháp Tăng tàn mà không hành Tăng tàn.
Đó là những việc con đã phạm trong chín mươi ngày an cư đồng với những sai phạm về oai nghi vậy.
Mục Kiền Liên lại hỏi Đức Phật: Cư sĩ muốn xin xuất gia. Tỳ Kheo liền chấp nhận, nhưng lại thỉnh thầy truyền giới.
Vị Tỳ Kheo ấy có phải là thầy không?
Đáp: Không phải!
Nếu theo vị này học pháp thì mới tôn là thầy, còn chỉ nương theo thì gọi là thầy y chỉ.
Hỏi: Nếu có Tỳ Kheo không xả giới Tỳ Kheo mà lại làm Sa Di, tức đại đạo nhân, nhưng sau đó thụ giới Tỳ Kheo lại để làm Tăng, có đắc giới không?
Đáp: Không đắc.
Hỏi: Nếu thụ mà không đắc giới, thì giới đã thụ khi trước còn không?
Đáp: Vẫn còn.
Hỏi: Vị cho thụ giới sau có phải là thầy chăng?
Đáp: Không phải.
Hỏi: Nhiều người thụ giới cùng thỉnh một vị làm thầy.
Vị này có được cùng lúc cho phép năm người hay mười người thụ giới không?
Đáp: Không được.
Hỏi: Sa Di thụ đại giới, thỉnh một vị Tỳ Kheo làm thầy truyền đại giới.
Nhưng vị Tỳ Kheo này không biết pháp Yết Ma và truyền giới, nên lại thỉnh một vị khác truyền giớ.
Như vậy vị nào làm thầy?
Đáp: Vị truyền giới đó là thầy, còn vị không biết pháp kia không phải là thầy.
Hỏi: Tỳ Kheo chỉ được truyền năm giới cho Bà La Môn và những người tại gia.
Vị này có được truyền cho người nữ không?
Đáp: Được!
Nhưng lúc truyền, Tỳ Kheo không được hỏi những việc tế nhị, nếu hỏi thì phạm tội Tăng tàn.
Chú giải: Trước khi thụ giới, nhất định phải hiểu rõ giới. Đối với người nam tại gia, Tỳ Kheo phải hỏi kỹ mới được. Còn với tất cả người nữ, Tỳ Kheo chỉ cần hỏi đại khái mà thôi, không nên hỏi các việc tế nhị. Nếu hỏi kỹ khiến cho họ xấu hổ, Tỳ Kheo sẽ phạm tội này vì đồng với tội nói lời thô ác vậy. Người làm thầy cần phải biết việc này.
Hỏi: Khi tất cả tứ sự của Tăng, nhà Vua không cúng dường đầy đủ, Tỳ Kheo có được cưỡng lấy thêm những phẩm vật chưa cúng không?
Đáp: Nếu Vua không chê trách thì được.
Chú giải: Nếu lấy mà Vua chê trách thì không được. Nếu không được cúng dường đầy đủ mà Tỳ Kheo đòi hỏi cho được tức rơi vào lỗi cưỡng cầu nhiều. Vì thế, Tỳ Kheo nên biết đủ với những vật mà thí chủ cúng dường thì được.
Hỏi: Tỳ Kheo thấy người hành dục mà không quở trách, thì phạm tội gì?
Đáp: Nếu Tỳ Kheo biết có thể can gián người ấy được mà không can gián thì phạm tội Đọa. Nếu Tỳ Kheo không thể can gián, thì nên đến một vị Tỳ Kheo khác sám hối về tội không thể can gián người kia.
Hỏi: Tỳ Kheo lúc trước đã phạm giới, sau đó muốn sám hối xin thụ giới lại, có được phép ở chung với Chúng Tăng không?
Đáp: Nếu phạm giới trọng thì không được thụ giới lại, nói gì đến ở chung. Nếu phạm tội Thâu Lan Giá mà sám hối lỗi lầm thì được thụ giới, nếu phạm tiếp mà không sám hối, thì còn không được thụ giới lại, huống gì là được ở chung!
Hỏi: Có việc gấp, Tỳ Kheo cầm cung tên lên thuyền, những Tỳ Kheo khác được đi cùng thuyền đó không?
Đáp: Tỳ Kheo cầm cung tên phạm tội trọng, còn Tỳ Kheo đi cùng thuyền phạm tội Xả Đọa.
Chú giải: Đã cầu đạo xuất thế, thì thà bỏ thân mạng chứ không thể làm việc đó. Người chủ động cầm hung khí ắt sẽ có tâm giết hại, nên phạm tội trọng. Những người đi theo kẻ này không thể tránh những tiếng hiềm trách, cũng trái với lời Phật dạy, nên phạm tội Xả Đọa.
Hỏi: Nếu Tỳ Kheo bị quan ép làm việc phi pháp thì phạm tội gì?
Đáp: Không được làm! Nếu làm, tùy theo việc lớn nhỏ mà định tội nặng nhẹ.
Hỏi: Hai Tỳ Kheo cùng nhau đùa nghịch, nhưng liền dừng thì phạm tội gì?
Đáp: Nếu việc đùa nghịch đã thành thì phạm tội Thâu Lan Giá.
Hỏi: Tỳ Kheo lén nghe hai người nam hành dục, thì phạm tội gì?
Đáp: Nếu không có tâm dục mà nghe thì phạm tội Đọa, còn có tâm dục mà nghe, nhưng thân không làm thì phạm tội Đột Kiết La.
Chú giải: Nếu không có tâm dục mà nghe thì phạm tội Đột Kiết La, nếu vô tình nghe được thì nên quở trách can gián họ. Nếu đáng quở trách mà không quở trách thì Tỳ Kheo phạm tội ác tác. Nhất định phải giọng nghiêm khắc quở trách can gián, tự cảnh tỉnh mình và người, thì Tỳ Kheo mới không có tội.
Thế nên ở đây phải dùng hai câu có tâm và không tâm để hoán đổi thì mới thuận câu văn. Nếu không như vậy thì chuốc lấy tai họa.
Nếu chẳng những Tỳ Kheo không can gián mà còn có tâm dục, thì tội đó càng nặng. Đã nói có tâm dục, chưa hẳn là không có lỗi, đâu chỉ phạm tội Đột kiết la. Đoạn này nhất định các nhà phiên dịch biên chép có chỗ sai lầm, người trí nên biết rõ.
Hỏi: Tỳ Kheo bị bệnh, không thể đi lại, có được phép ngồi xe ngựa không?
Đáp: Nếu vị ấy cưỡi ngựa đực thì đều được, còn cưỡi ngựa cái mà Tỳ Kheo không khởi niệm xấu thì phạm tội Đọa, khởi niệm xấu phạm tội Thâu lan giá. Nếu không biết đó là ngựa cái thì Tỳ Kheo không có tội.
Hỏi: Tỳ Kheo chê Kinh không đẹp, nên mang bán rồi tạo lại Kinh đẹp thì phạm tội gì?
Đáp: Tội bán Kinh đồng với tội bán cha mẹ.
Chú giải: Như cha mẹ dung mạo rất xấu xí, người con chê bai mà mang đi bán, tội này không thể dung thứ, đồng với tội ngũ nghịch. Tỳ Kheo chê Kinh không đẹp, tội cũng như vậy vì bán cha mẹ pháp thân.
Hỏi: Hai Tỳ Kheo đấu vật nhau thì phạm tội gì?
Đáp: Phạm tội Đọa.
Chú giải: Tỳ Kheo thân thể cường tráng, đúng ra nên dùng sức mạnh nhẫn nhục siêng năng tu trì mới xứng là bậc trượng phu dũng mãnh! Đâu thể dùng sức mạnh của thân mà làm việc này. Kẻ ấy đã mất hết thể diện của Tăng, lại khiến mọi người chê trách, nên phạm tội này.
Hỏi: Súc sinh hành dục, Tỳ Kheo tình cờ thấy được, khiến chúng rời nhau thì phạm tội gì?
Đáp: Phạm tội Đọa.
Chú giải: Trong bốn oai nghi, Tỳ Kheo nên luôn nhiếp tâm phản chiếu, giữ gìn các căn để khi tiếp xúc với các cảnh nhiễm tịnh, tâm không chấp trước. Đây là do tâm chạy theo cảnh xấu, nên phạm tội này. Nếu như kẻ ấy khởi niệm mà mất thân, còn thêm phạm tội Tăng tàn. Vì thế không thể không cẩn thận.
Hỏi: Tỳ Kheo đắp y tiểu vào tụ lạc, để y đại lại trong nội giới, có được phép nhận sự cúng dường của thí chủ không?
Đáp: Được.
Chú giải: Vì sao?
Vì người hành đạo nhận vật cúng dường, làm ruộng phúc cho mọi người. Ba y đều được gọi là phúc điền. Vì vậy bất đắc dĩ, Tỳ Kheo có thiếu thì cũng không có lỗi.
Hỏi: Trong mùa hạ, Tỳ Kheo được phép nhận phẩm vật thuộc Tăng không?
Đáp: Nếu thí chủ cúng dường những phẩm vật thuộc về Tăng thì Tỳ Kheo nên phân chia ngay, không được cất giữ.
Chú giải: Nếu giữ lại sẽ phạm hai lỗi: Một, Tăng thêm lòng tham, chướng ngại đạo nghiệp. Hai, Chư Tăng có người đến và đi, mất phần của Tăng hiện tiền. Người chủ trì cố làm trái là phạm tội, không biết nhân quả.
Như trong văn nói: Nếu Tỳ Kheo một mình thụ hưởng sự cúng dường của tín thí thì không được.
Hỏi: Tỳ Kheo có thân quen với một gia đình thí chủ. Gia đình này muốn làm Phật Sự, nên giao việc ấy cho Tỳ Kheo. Sau đó lại có một Tỳ Kheo khác đến Tỳ Kheo này xin vật dụng.
Nếu Tỳ Kheo khác đó nhận được, thì Tỳ Kheo được thí chủ giao việc bị phạm tội gì?
Đáp: Xem ý nếu vị thí chủ đó không thích thì Tỳ Kheo không được lấy cho. Nếu cho thì Tỳ Kheo phạm tội Đọa. Nếu thí chủ đồng ý, thì Tỳ Kheo được phép lấy cho Tỳ Kheo kia.
Hỏi: Chim câu, chim sẻ làm tổ trong Chùa hay phòng Tăng, mà Tỳ Kheo phá đi, hoặc lấp hang chuột, thì vị ấy phạm tội gì?
Đáp: Nếu chim câu, chim sẻ làm tổ mà chưa có con thì được phép đuổi chúng đi, còn chúng có con thì Tỳ Kheo không được đuổi. Hang chuột chỉ có một lỗ thì Tỳ Kheo không được bít, Nếu trong và ngoài hang thông nhau thì Tỳ Kheo được phép bít lỗ bên trong.
Hỏi: Tỳ Kheo được phép viết thư qua lại với thầy và bạn đồng học không?
Đáp: Nếu cùng địa phương thì được, còn ở nước khác thì không được.
Hỏi: Phép Vua và cha mẹ không cho người ấy xuất gia, nhưng người ấy vẫn xuất gia thụ giới, thì có đắc giới không?
Đáp: Không!
Chú giải: Theo luật thì phạm tội khinh, phạm già giới, còn không đắc giới, huống gì pháp lệnh của Vua nghiêm ngặt, lời dạy từ hòa của mẹ cha, mà kẻ ấy không nghe theo tức trái với lời Phật dạy, nên không được. Hiếu thuận vâng theo, chính là giới vậy.
Vì sao?
Hiếu gọi là giới, nên người đời nay muốn cầu xuất gia, phải nên chiêm nghiệm lời Phật dạy mà tự thân phải cẩn thận.
Bấy giờ, Mục Kiền Liên từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Con rất vui mừng khi được nghe Như Lai dạy Tì Ni.
Nhưng sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể thụ trì Tì Ni này?
Phật bảo Mục Kiền Liên: Người nào học tập và tư duy Tì Ni, nên biết người đó có thể tu tập và thụ trì Tì Ni này.
Phật lại bảo: Sau khi ta diệt độ, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni nào phỉ báng người thụ trì Tì Ni này, thì kẻ đó là bạn của ma, chẳng phải là đệ tử của ta. Bọn người này đời đời học đạo không thành, không thể vượt khỏi ba cõi. Nay ta thương xót các chúng sinh đó mà nói Kinh này.
Nghe Đức Phật nói xong, Mục Kiền Liên vô cùng vui mừng và cung kính hành trì.
Chú giải: Hoan hỉ là ý tin nhận, tức có chỗ lãnh hội ngộ nhập, dốc lòng tin chắc không còn nghi ngờ, nên gọi là hoan hỉ. Phụng là tuân theo. Hành là dốc lòng thực hành, tức là dùng pháp này để tự lợi và lợi tha, lưu truyền khắp cõi trời và nhân gian, truyền khắp vi trần cõi nước. Lại kế tục phương xa từ vạn cổ, nối tiếp tuệ mạng đến nghìn năm, khiến cho vĩnh viễn không cùng, nên gọi là tin thụ lưu thông.
Có người cho rằng Kinh ghi: Các pháp từ xưa đến nay, tướng thường tự vắng lặng.
Kinh lại ghi: Tu vô tướng chính quán, tức chứng bồ đề.
Vậy dùng năm trăm sự tướng này mà tu, thì há không quá rườm rà tỉ mỉ ư?
Nếu nói vậy thì mọi người không biết Đức Thế Tôn thuyết giáo có quyền có thật. Trước tiên Ngài dùng giới tướng Tì Ni khai phát cho những người mới phát tâm, sau đó dùng pháp Nhất thừa tối thượng thâu nhiếp họ trở về chỗ vô học. Bởi vì nhất tâm không chướng vô lượng, vô lượng không ngoài nhất tâm. Nếu người sơ tâm không giữ luật nghi, buông lung thì trở thành tà kiến.
Cho đến tâm sau cùng không đạt được thật tướng, thì nỗ lực tu hành, chung quy cũng là pháp hữu vi. Nhất định phải biết sự không thể vượt lý, lý không ngại sự, sự lý gồm tu, hoàn toàn không thiên lệch, mới được gọi là chính quán.
Chớ mượn cớ bàn luận xằng bậy, làm mờ mịt người đời sau, khiến cho mình sai, người khác cũng sai, lỗi ấy chẳng phải nhỏ vậy.
Căn cứ theo bản chính thì có ba trăm sáu mươi bảy câu hỏi, bản Đan châu nhĩ giống bản này. Tuy nhiên, bản đời Tống thì chỉ có hai trăm hai mươi câu hỏi, như vậy đã thất lạc quá nhiều. Nay lấy hai bản bổ sung cho nhau, nhưng cũng không đủ năm trăm câu hỏi.
Nay nghi bản dịch không đầy đủ, hoặc có thể đề Kinh nêu ước lược là ba trăm, nhưng người chép nhầm số ba thành số năm vậy.
Có bài kệ:
Vượt phàm vào Thánh, giới ngôi đầu,
Quí trọng tu trì chí bền lâu
Vị cao trì giới thành tối thắng
Sơ tâm học giới vẫn lệch sâu.
Mục liên từ bi nêu câu hỏi,
Phàm phu xét kỹ, chú lời mầu
Mong người kính tin môn giải thoát
Tu nhân, thành Phật ở mai sau.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba