Phật Thuyết Kinh Năm Phật đảnh Tam Muội đà La Ni - Phẩm Sáu - Phẩm Nghi Pháp Bí Mật Của Năm đảnh Vương

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT KINH

NĂM PHẬT ĐẢNH TAM MUỘI

ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM SÁU

PHẨM NGHI PHÁP BÍ MẬT

CỦA NĂM ĐẢNH VƯƠNG  

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: Thành Tựu Pháp Hạnh của Đảnh Vương Chú này là điều mà Chư Phật cùng nhau nói, để được lợi ích thành tựu Đảnh Vương.

Này Mật Tích! Hết thảy Như Lai quá khứ hiện tại nói câu kệ, giáo hạnh không có sai biệt, thảy đều ở nơi thù thắng trống vắng yên lặng mát mẻ. Nay ta lược bày nói.

Nơi có Bậc Thánh cư ngụ ở Đại Danh Sơn, hoặc hang của Tiên Thần, hoặc nhà trống mới, nơi rừng suối… các chỗ như đây, một lòng thiện tịnh tu hành pháp này. Hết sức trong sạch cắt trừ các pháp bất thiện. Đối với Pháp Thiện Tịnh phải sanh ý thâm nhập. Pháp của hai câu này lan truyền, hay sanh nghiệp thiện, bất thiện.

Thế nên nếu ăn uống, các vị cay, ngọt, chua, lạt… đừng ham muốn: Tham ăn thích uống quá độ. Nếu vì tham, liền chẳng thể trì tụng, cúng dường, đốt lửa, chẳng sanh tâm định. Chính vì thế cho nên người Trì Chú cắt lìa tham ái, luôn ở đầu đêm tùy theo sức chuyển đọc Kinh đại thừa Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Kinh Bảo Vân với Kinh đại thừa khác.

Đến khoảng giữa đêm, trải cỏ tranh sạch, giáp vòng bốn phương kết Giới, kết Ấn Chú, ấn hộ trì thân như Vua Sư Tử, đầu hướng về phương Nam, mặt hướng về phương Đông, nghiêng hông phải, tay lót làm gối, chồng chân lên nhau mà nằm.

Đây là pháp nằm khi thiêu đốt hỏa thực trong lúc niệm tụng Bố Sắt Trí Ca Puṣṭika: Tăng Ích.

Nếu khi thiêu đốt hỏa thực trong lúc niệm tụng Phiến Để Ca Śāntika: Tức tai thì đầu hướng về phương Đông Nam, mặt hướng về phương Đông Bắc, nghiêng hông phải, tay lót làm gối, chồng chân lên nhau mà nằm.

Nếu khi thiêu đốt hỏa thực trong lúc niệm tụng A Tỳ Chá Lỗ Ca Abhicāruka: Hàng Phục thì đầu hướng về phương Tây, mặt hướng về phương Nam, nghiêng hông phải, tay lót làm gối, chồng chân lên nhau mà nằm.

Nếu khi ngủ, mộng thấy leo lên cây Bồ Đề, cây Chiên Đàn Hương, cây Nhĩ La, cây Uất Đầu Mạt La… thì gọi là tướng chứng Trung Phẩm mau thành tựu.

Nếu mộng thấy cỡi Bạch Hạc, chim công, Kim Sí Điểu… thì gọi là tướng chứng Thượng Phẩm mau thành tựu.

Nếu mộng thấy leo lên lầu gác, cây phướng. Dẫm đạp trên vòng hoa. Hoặc thấy tay cầm cây đàn Không Hầu đi vào chỗ của Chúng Tăng, leo lên cái tháp, ngồi trên con thuyền… thì gọi là tướng chứng Hạ Phẩm mau thành tựu.

Nếu có mộng thấy người Chiên Trà La, heo, chó, lạc đà, người chết… nếu tiếp chạm hoặc đứng gần. Đây là chướng, nên chẳng thể thành nhóm tướng như vậy, người trí nên biết.

Nếu Tỳ Na Dạ Ca gây các chướng não. Lấy gạo tẻ hòa với dầu mè đen, ngày ngày ba thời, một lần Chú một lần thiêu đốt, đều một ngàn không trăm lẻ tám biến, đủ hai mươi mốt ngày liền được mộng thấy Bổn Thần hiện thân dạy bảo.

Nói rằng: Ngươi nên đến chỗ … , lấy bơ, mật hòa với nhau, ngày đêm ba thời, mỗi thời một lần Chú một lần thiêu đốt, đều một ngàn không trăm lẻ tám biến, trong ba ngày đêm tức được mộng thấy hết thảy chân pháp của Tỳ Na Dạ Ca. Người nên ăn hết thảy chân đạo thì ngươi sẽ làm xong công việc thành biện.

Nếu dạy bảo, hiểu biết xong thì gia thêm niệm Thần Chú. Nguyện nên vì ta hiện tướng Đại Trượng Phu, đừng vì ta hiện tướng trạng Thiên Nữ làm loạn tâm cảnh của ta, vọng sanh nhóm tâm tham dính, ngu si. Lại trì hộ thân che giúp cho ngủ yên.

Nếu khi trì tụng, đừng nhớ mọi loại pháp đùa giỡn, ham muốn tạp nhạp, chảy rỉ… cũng đừng muốn tính mọi việc ở vị lai với các pháp khác làm tán động, loạn tâm của ta… chỉ một lòng cột buộc tưởng vào lý của mỗi một câu trong Chú văn.

Nếu tâm ham muốn sanh ra thì quán thân bị hư nát.

Nếu tâm giận dữ sanh ra thì quán trụ tâm từ.

Nếu tâm ngu si sanh ra thì quán mười hai duyên.

Nếu tâm luôn luôn duyên theo điên đảo sanh trụ, tức tâm quán tưởng Chú Thần ngay trên đảnh đầu, dùng hoa hương như lúc trước cúng dường, ngồi Kiết Già như pháp niệm tụng.

Nếu chỉ một chút chẳng y theo pháp này, hoặc liền bị chướng ngại, Tỳ Na Dạ Ca phá hoại, ăn nuốt.

Nếu có người chưa từng vào Luân Vương Đại Chủng Tộc Đàn Tràng này, chưa được A Xà Lê trao truyền pháp mà tự trì pháp này, tức liền thường bị Tỳ Na Dạ Ca như bóng theo thân gây chướng ngại. Hiến thức ăn, hiến hương, hiến hoa, cơm, nước thơm, đốt lửa, tiếng của Chú… chẳng thể đến hiến cho Bổn Chú Thần được.

Đảnh Luân Vương này, nếu người thành tựu tức thường chẳng bị Mỗ Lại Đà Trá Ca, Tỳ Na Dạ Ca Vương gây sanh chướng nạn, huống chi là hết thảy Tỳ Na Dạ Ca khác có thể gây chướng nạn sao!?…

Thế nên người trí thành tựu Chú pháp, nên dùng Nan Thắng Đoạt Nộ Vương Chú hoặc dùng Luân Vương Bộc Tùng Chú, vào lúc trì tụng thời thiêu đốt hỏa thực cùng hộ giúp cho thân ấy.

Nếu chẳng y theo Pháp, mỗi mỗi hộ thân tức khó thành tựu, thường bị các Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát ác, loài Ác Cấu Tiên, Trà Chỉ Ni Quỷ, Tất Xá Già Quỷ, Ngạ Quỷ… đi theo nơi nơi, rình tìm gây chướng não, phá hoại cho hao sút.

Trong Chú Pháp này, đừng dùng hoa Mạn Đà La, hoa Nhĩ La, hoa Át Ca… hiến cúng dường, với trong Chư Phật Đảnh Cúng Dường Pháp cũng đừng cúng dường.

Nên dùng hoa Nhạ Để, hoa Đầu Bát La, hoa Câu Vật Đầu, hoa Dụ Để với mọi loại Uất Bột Danh Hoa. Cầm nhóm hoa này thường dùng cúng dường năm Đảnh Luân Vương.

Nếu có người Trì Chú: Một lần, hai lần, ba lần kèm tu pháp này mà chẳng chứng Tất Địa thì nên siêng năng thành khẩn gấp đôi tinh chuyên tu tập, cho đến bảy lần. Trên bãi cát ở sông, biển… ngày ngày ba thời, ấn cát làm tháp Phật, tùy theo sức ấn tu kèm chuyển các Kinh Điển khác của đại thừa.

Ấn tháp này đủ ba mươi vạn cái, liền diệt được mười nghiệp chướng nặng của đời trước. Tùy theo sức cúng dường mỗi một cái tháp này. Dùng hương bột xoa bôi, các hao hương màu nhiệm ở trước mặt Đức Phật hiến cúng, cúng dường. Ngồi ở trước mỗi một cái tháp, tụng Chú một trăm lẻ tám biến.

Người trí như vậy tu trì pháp tinh túy. Nếu chẳng thành tựu tức bị chướng nặng nề của đời trước. Lại gia thêm ngày ngày ấn cái tháp cao một khuỷu tay từ một ngàn cái tháp trở lên. Như tội nặng năm nghịch cũng được tiêu diệt, huống chi là túc chướng chướng của đời trước khác.

Như đây, y theo Pháp siêng săng tu trì, chỉ tụng Trì Chú cũng được tiêu diệt tội huống chi là ấn tháp.

Lại có pháp. Đi đến trụ bên cạnh sông lớn, sông nhỏ.

Cầm hoa sen, một lần Chú một lần ném vào trong nước sông sớn, sông nhỏ… đủ mười vạn cái liền được thành hướng, huống chi la gia thêm gấp đôi mà chẳng thành tựu sao?

Nếu chẳng ở nơi như vậy mà làm pháp tức chẳng thành biện được.

Như Chú Pháp này. Người ít phước, bạc phước khiến gia thêm ấn tháp liền được thành tựu. Người gieo trồng phước đức chỉ y theo pháp tụng trì, cúng dường liền được thành tựu.

Như vậy người thành, siêng năng tụng Trì Chú làm căn bản. Thế nên người bền chắc, tinh tấn, thanh tịnh cầu Bồ Đề đều quyết định thành tựu.

Chưa từng thấy Chú nơi Kinh mà tự thành. Thiết yếu phải tinh tấn, vì Bồ Đề, Sư Tăng, cha mẹ với chúng sanh khổ… cố công tu tập, chắp tay đảnh lễ, y theo pháp tụng Chú trừ hết chướng cấu mới được thành tựu, làm công đức lớn.

Hữu tình ở kiếp sơ: Chân chất ngay thẳng, thuần thiện, phước đức cao thắng nên tùy làm tùy thành, chẳng như ngày nay ta, Thích Ca Mâu Ni Như Lai ra đời trong thời ác trược… khi được giải thoát với khi hàng đệ tử chứng giải thoát thời liên tục siêng năng chặt đứt lưới Tâm sai biệt nghi ngờ, đầy đủ tinh tấn, trong sạch tu việc Phước, liền được thành chứng.

Nếu phước đức lớn lao, y theo pháp tu trì mau được thành tựu. Nếu phước đức ít ỏi, y theo pháp tu trì thì lâu lắm mới thành tựu.

Chú tối thượng này, nếu chứng thành tựu liền được cao thắng không có hàng nào ngang bằng được. Ví như báu Lưu Ly, báu ánh sáng của hoa sen trong sạch, công lực, giá thật đắt gấp bội lên cũng chẳng theo kịp, không có nói rõ được, huống chi là nói đủ. Cho nên sức của Đảnh Luân Vương Chú này chẳng thể nghĩ bàn, dõng mãnh thù đặc.

Hành Giả nên thường ôm bình bát đi xin thức ăn. Nếu được bánh, cơm lại trong sạch đào xới lựa chọn, chia ra làm ba phần. Một phần phụng hiến Đức Phật, Thần, Chư Thiên. Nếu thức ăn hiến xong, cầm lấy đem cho hết thảy hữu tình trên bờ dưới nước. Một phần bố thí cho người từ bên ngoài đi đến xin ăn, nếu không có người xin thì đem cho cầm thú. Một phần giữ lấy, y theo pháp tự ăn.

Nếu có làm pháp cầu an ổn thì hướng mặt về phương Bắc, ngồi ăn.

Nếu có làm pháp cầu giàu có thì hướng mặt về phương Đông, ngồi ăn.

Nếu có làm pháp cầu điều phục thì hướng mặt về phương Nam, ngồi ăn.

Hành Giả thường khởi tâm từ, nghĩ đến các hữu tình đang chịu mọi sự đau khổ, thề sẽ độ thoát.

Nếu Đại Bí Sô, hoặc Ô Ba Tác Ca Nam Cư Sĩ, người trì phạm hạnh… nếu tâm từ bi, một mình hành trì pháp, tức không có chướng ngại. Thế nên người trí ưa muốn an ổn, giàu có… sẽ mau thành chứng.

Nên thường dùng tâm định cung kính, chắp tay lễ Phật, Tháp kèm trì, rưới vảy mặt đất. Lấy phân bò hòa với đất màu vàng rồi xoa tô đất của Đàn. Tụng dùng Nhất Thiết Đảnh Vương Tâm Chú, hoặc tụng Tồi Toái Đảnh Vương Chú chú vào hạt cải trắng kèm với tro bảy biến, rồi rải bày bảy phương, kết làm Phương Giới.

Lấy bốn cây cọc, dùng dây chỉ cột buộc rồi Chú vào bảy biến, đóng ở bốn góc, kết phương địa giới, an bày vị trí ngồi, mọi loại cúng hiến, hộ thân, kết Ấn, thỉnh triệu, cúng dường, tụng Chú, đốt lửa… tự thân nghiệm thành.

Trước tiên, bắt đầu cúng dường Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, tiếp theo nên cúng dường Minh Đảnh Vương, tiếp theo nên theo thứ tự cúng dường mỗi một Đảnh Vương, tiếp theo nên cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát với Chủng Tộc của Ngài, tiếp theo nên cúng dường Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát với Chủng Tộc của Ngài, tiếp theo nên cúng dường Dữ Nguyện Đảnh Vương với Chủng Tộc của Ngài.

Như vậy cúng dường, mỗi mỗi theo thứ tự đều cầm hương hoa, trước tiên tưởng cúng dường sau, tiếp theo nên cúng hiến Thiên Thần của thế gian.

Như cúng hiến này gọi là pháp tắc cúng dường của ba chủng tộc.

Người ngu si đần độn không thể hiểu biết, dùng mọi thứ chê bai nói: Hết thảy người Trì Chú nói các Chú Pháp, tận cùng là Mạn Ngữ lời nói phù phiếm trống rỗng. Nếu người trí gặp người ngu si như vậy thì nên tự mính quán sát Chư Phật nói lời chân thật cũng chẳng đặt bày sự hư dối. Chỉ tinh ròng chuyên chí tu pháp cúng dường, pháp Phiến Để Ca, Pháp Bố Sắt Trí ca, Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca.

Nếu Pháp Bố Sắt Trí Ca Tăng Ích: Khi niệm tụng, lúc thiêu đốt hỏa thực thời hướng mặt về phương Đông, một lòng, ngồi Kiết Già. Sau mỗi Chú gia thêm câu Sa Ha SVĀHĀ.

Nếu Pháp Phiến Để Ca Tức Tai: Khi làm niệm tụng, lúc thiêu đốt hỏa thực thời hướng mặt về phương Bắc, định Tâm, ngồi Kiết Già, cũng sau mỗi Chú gia thêm câu Sa Ha SVĀHĀ.

Nếu Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca Hàng Phục: Khi niệm tụng, làm pháp, thiêu đốt hỏa thực thời hướng mặt về phương Nam, sân nộ, bàn chân trái đạp trên cạnh bàn chân phải, ngồi xổm cũng sau mỗi Chú gia thêm câu Hổ Hồng HŪṂ.

Nếu muốn thường làm pháp Phiến Để Ca, lấy mè đen hòa với hạt cải trắng, làm pháp hỏa thực.

Nếu muốn thường làm Pháp Bố Sắt Trí Ca, cũng lấy mè đen hòa với hạt cải trắng, gạo tẻ làm Pháp hỏa thực.

Nếu muốn nhổ bỏ gai góc trong Phật Pháp, làm Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca, lấy thuốc độc hòa với rễ Tân Lang Già Lý, làm Pháp hỏa thực.

Làm Pháp Bố Sắt Trí Ca: Dùng cây Nhĩ La, cây A Thâu Ca, cây A Sai Na, cây Bồ Đề, cây Tát Nhạ Ca thường làm củi đốt lửa.

Pháp Phiến Để Ca: Dùng cây Ni Cù Đà, cây Tân Đầu Mạt La, cây A Thuyết Tha, cỏ Thiên Môn Đông… thường làm củi đốt lửa.

Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca: Dùng cây Khư Tha La, cây Vô Lâu, cây Khổ Luyện, cây Ca La Nhĩ La… thường làm củi đốt lửa.

Điều phục tâm ác của kẻ khác khiến cho hiền thiện thì gọi là A Tỳ Chá Lỗ Ca.

Trừ hết tai chướng, tất cả an định thì gọi là Phiến Để Ca.

Nguyện được viên mãn sự mong cầu như ý thì gọi là Bố Sắt Trí Ca.

Nhóm pháp như vậy ở hết thảy nơi chốn, người Trì Chú khéo suy nghĩ, y theo pháp tu tập sẽ được tối thượng trong giáo này. Nếu muốn tịch trừ hết thảy tai chướng trong giáo pháp này thì nên làm như vậy. Trừ pháp này ra đều chẳng nên làm.

Người đã thực hành này, nên có tâm từ, hết thảy phạm hạnh thanh tịnh, đừng như ngoại đạo để tóc dài móng nhọn, tức được thanh khiết. Nếu tóc dài thì sanh chấy rận, tùy đó sanh tội chướng, phải gội rửa mất nhiều công mà niệm tụng số ít. Nếu móng tay chân dài nhọn thì lưu giữ sự cáu bẩn dơ uế, cầm hương đốt hương liền bị dính dơ, tùy theo đây sanh tội chướng.

Khi Nhật Nguyệt Thực thời làm Thượng Thành Tựu. Ở tất cả Thời Xứ cũng giữ gìn đừng Quán Luận, đừng chê bai Hòa Thượng A Xà Lê: Lỗi với chẳng phải là lỗi.

Nếu khi cúng dường Chú Sư, đột nhiên thấy Chú Thần thọ nhận sự khoái lạc của Cõi Trời thì cũng đừng yêu nguyện đồng với điều này.

Khi thấy có cõi nước không có chủ, loạn lạc thời đừng trụ trong nước đó tu Pháp niệm tụng.

Lại đừng trụ ở đất có Long Thần hộ giữ, đất có Dược Xoa La Sát thường tụ tập, đất ở rừng Thi Đà, đất không có Phật Pháp, đất có cọp sói ở, đất có nhiều muỗi mòng, địa phương không có mưa, đất có nhiều gió lộng, đất có nhiều giặc cướp, đất có người giết mỗ, đất buôn bán rượu, đất buôn bán Kinh Tượng, đất mua bán vật dụng hung ác, đất có dâm nữ ở với đất có mọi nạn… đều đừng trụ trong đó làm Pháp niệm tụng, tác cầu các Pháp đều chẳng thành tựu.

Trong pháp niệm tụng thì pháp đốt lửa là hơn hết, Thiên Thần hoan hỉ ví như người ăn uống no đủ thì vui vẻ thích thú, cho nên Đức Phật nói trong hết thảy Pháp Niệm Tụng Phẩm thì pháp này là hơn hết. Cũng chẳng luận là Quốc Vương, hèn kém như Dược Xoa Tướng Nữ. Như Đức Phật đã nói niệm tụng, đốt lửa, hết thảy việc pháp… thì công nhiều thành nhiều, công ít thành ít.

Cũng đừng cho kẻ khác: Rượu, thịt, thuốc độc, vật dụng: Đao, kiếm, cung tên, búa, giáo… cũng đừng khen ngợi giết hại, thích giết hại, phương tiện giết hại, mưu tính giết hại… cũng chẳng xem nói việc xấu tốt của người khác, cũng chẳng dạy cho kẻ khác pháp mê đảo si, với pháp làm hết thảy hữu tình hoảng sợ không yên ổn… đều chẳng nên làm.

Gặp nơi có Bộ Đa Quỷ bất tịnh, nơi có Thi Quỷ, nơi có Dược Xoa La Sát… thường một lần ra vào thì tưởng làm thanh tịnh.

Ở nơi niệm tụng, ngồi Kiết Già, tưởng các diệu pháp thành sông nước thơm, thân lặn chìm trong đó, tắm rửa. Kết Dục Chú Ấn ấn vào thân, tưởng là thân của Phật, Bồ Tát… liền dùng hương xoa bôi, xoa bôi trang sức khắp thân, nhất chí niệm tụng chẳng nên lay động.

Nhìn khắp, nghe kỹ: Ho hắng, khạc nhổ. Nếu có lìa khỏi chỗ ngồi phá tọa, lay động, ho hắng… liền xoay vần kết Dục Ấn ấn vào thân một lần nữa. Trì xong, lấy nước sạch rửa tay súc miệng rồi lại tụng niệm, cũng được quyết định thành tựu thượng pháp, trung pháp, hạ pháp.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần