Phật Thuyết Kinh Nghi Quỹ đại Minh Thành Tựu Trì Minh Tạng Du Già đại Giáo Tôn Na Bồ Tát - Phẩm Sáu - Phẩm Pháp Trì Tụng Của Tôn Na Bồ Tát - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Pháp Hiền, Đời Tống

PHẬT THUYẾT

KINH NGHI QUỸ ĐẠI MINH

THÀNH TỰU TRÌ MINH TẠNG

DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA BỒ TÁT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Pháp Hiền, Đời Tống  

PHẨM SÁU

PHẨM PHÁP TRÌ TỤNG CỦA 

TÔN NA BỒ TÁT  

PHẦN HAI  

Tiếp lại kết Như Lai Bộ Tam Muội Ấn. Hai tay nắm quyền duỗi ngón cái thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Như Lai Bộ Tam Muội Minh lúc trước để ủng hộ.

Tiếp kết Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Ấn. Hai tay nắm quyền, hai ngón giữa như cây kim, đặt hai ngón trỏ ở lóng ngón giữa, đặt hai ngón cái bên cạnh ngón trỏ rồi đặt trên đỉnh đầu thì thành Ấn.

Lúc kết Ấn này thời tụng Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Đại Minh, ở ngay thân của mình làm đại ủng hộ. Hành nhân vào lúc kết Ấn tụng Minh sẽ được Tôn Na Bồ Tát vui vẻ nhìn ngó.

Tiếp kết Đầu Ấn: Chắp hai tay lại, co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn tụng Đầu Đại Minh là:

Án Tôn, ngật lị.

OMÏ CUNÕ HRÌHÏ.

Tiếp kết Đỉnh Ấn: Dùng Ấn lúc trước, sửa ngón cái phải vịn lóng giữa của ngón giữa phải thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn tụng Đỉnh Đại Minh là:

Án, Tôn, hồng.

OMÏCUNÕ HÙMÏ.

Tiếp kết Tâm Ấn. Hai tay nắm quyền, hơi duỗi hai ngón trỏ thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Tâm Đại Minh là:

Án Tôn, phát tra.

OMÏ CUNÕ PHATÏ.

Tiếp kết Giáp Trụ Ấn:

Dùng Đỉnh Ấn lúc trước, bung hai bàn tay thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Giáp Trụ Đại Minh là:

Án Tôn, mãn đà.

OMÏCUNÕ BANDHA.

Tiếp kết Bản Bộ Mẫu Ấn cũng gọi là Phật Nhãn Ấn. Chắp hai tay lại đỉnh lễ, co hai ngón trỏ vịn lóng ngón giữa, co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh lúc trước.

Tiếp kết Bản Bộ Tôn Ấn. Đưa hai ngón vô danh vào lòng bàn tay lay động.

Tiếp để hai ngón giữa như cây kim, duỗi thẳng hai ngón trỏ đặt ỡ lưng ngón giữa, duỗi hai ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của ngón giữa thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Bản Bộ Đại Minh là:

Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Câu la hột lị, câu la hột lị na dã.

NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏKULA HRÌHÏKULA HRÏDAYA.

Tụng Minh này xong. Lấy cái bát thật sạch chứa đầy nước thơm. Lại dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh bảy biến, ở Đạo Trường bắt đầu từ góc Đông Bắc rảy tịnh bốn phương và Phát Khiển Ma Chướng.

Tiếp kết Thỉnh Triệu Ấn. Dùng Căn Bản Ấn lúc trước, sửa hai ngón cái co như móc câu thì thành Ấn. Dùng Ấn này Thỉnh Triệu Hiền Thánh.

Tùy theo Ấn, tụng Thỉnh Triệu Đại Minh là:

I tứ, bà nga phộc đế, Tôn Na Đà La Ni. A nga tha, a nga tha, ma ma, bạc khất đát dã đát, tam ma duệ nẵng tả lị già, bát la đế thế nan, bát la tế na mi.

EHI BHAGAVATI CUNÕDHE DHÀRANÏIAGCCHA AGACCHA MAMA.

PAKSÏÀYATÀ SAMAYE DA’SA ÀRGHA PRATICCHANÀMÏ PRATICCHA ME.

Tụng Minh này xong. Tưởng các Hiền Thánh tùy theo lời Triệu đi đến. Liền tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi an trú Hiền Thánh xong.

Tiếp kết Tam Muội Ấn và tụng Hiến Hiền Thánh Tòa Đại Minh.

Tam Muội Ấn là: Tay phải đem ngón cái đè móng ngón trỏ, các ngón còn lại như tướng Kim Cương thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Tam Muội Đại Minh là:

Án Thương yết lị, tam ma duệ, sa phộc hạ.

OMÏSAMÏKARE SAMAYESVÀHÀ.

Tụng Minh này xong, Hành nhân liền nói: Nguyện xin Bồ Tát ngồi ở chỗ này xong, an trú Đạo Trường nhận sự cúng dường của con. Tiếp tụng Bản Bộ Đại Minh bảy biến gia trì vào nước thơm dùng làm Ứ Già.

Tụng Bản Bộ Đại Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A lị già bà nga phộc đế, bát la đế tha, sa phộc hạ.

OMÏ CALE CULE CUNÕDHE ÀRGHA BHAGAVATI PRATICCHASVÀHÀ.

Tiếp kết Căn Bản Ấn. Mật kết hai ngón cái duổi thẳng đặt ngang bằng thì thành Ấn và tụng Đại Minh ba biến gia trì vào nước Ứ Già lúc trước. Sau đó ở bên mặt Đông, quỳ gối dâng hiến Hiền Thánh.

Đại Minh là:

Án Ca ma la, sa phộc hạ.

OMÏ KAMALASVÀHÀ.

Hiến ứ già xong, lại dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Ấn và tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh kết Kim Cương Giới làm ủng hộ.

Tiếp kết thập phương giới. Đặt hai bàn tay song song nhau. Trước tiên đem ngón giữa phải, ngón vô danh phải với ngón trỏ trái đặt ở lóng thứ nhất của ngón út trái.

Lại đem ngón giữa trái, ngón vô danh trái với ngón trỏ phải đặt ở lóng thứ nhất của ngón út phải.

Ngón trỏ, ngón út còn lại như cây kim. Lại đem ngón cái đât ở lóng thứ nhất của ngón trỏ thì thành Ấn.

Lúc kết Ấn này, tùy theo Ấn tụng Kết Thập Phương Kim Cương Giới Đại Minh là:

La đát nẵng, bát la nẵng đế. Aùn Sa la sa la, phộc nhật la, bát la ca la, hồng, phát tra, sa phộc hạ.

RATNA VAJRA NADI OMÏ SARA SARAVAJRA PRAKARA HÙMÏ PHATÏSVÀHÀ.

Tiếp kết Kim Cương Bán Nhạ La Ấn. Liền dùng Ấn lúc trước, tách ngón cái ra thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Bán Nhạ La Đại Minh là:

La đát nẵng phộc nhật la nẵng đế. Aùn vĩ sa phổ la lạc khất xoa, phộc nhật la bá la, hồng, phát tra.

RATNA VAJRA NADI OMÏ VISPHURAD RAKSÏAVAJRA PAMÏJALA HÙMÏ PHATÏ.

Tiếp kết Hạ Phương Kết Giới Ấn:

Dùng A án như lúc trước, sửa hai ngón cái thẳng xuống bên dưới như cây kim thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Kết Hạ Phương Giới Đại Minh là:

La đát nẵng phộc nhật la nẵng đế. Aùn chỉ lị chỉ lị phộc nhật la, phộc nhật lị, bộ, vãn đạt nễ, hồng, phát tra.

RATNA VAJRA NADI OMÏ KÌLIKÌLA VAJRA VAKRI BHUR BANDHANI HÙMÏ PHATÏ.

Tiết kết Đại Ô Sắt Nị Sa Ấn. Đặt hai tay song song nhau. Co hai ngón vô danh vào lòng bàn tay, hai ngón giữa như cây kim đặt ở lóng thứ ba của hai ngón cái.

Lại để ngón cái, ngón vô danh như cây kim đem ngón út đè lóng thứ ba. Lại để ngón út như cây kim đặt ở ngón trỏ như tướng Kim Cương thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Ô Sắt Nị Sa Đại Minh là:

Án Thương yếi lị, ma hạ tam ma duệ, sa phộc hạ.

OMÏSAMÏKARE MAHÀ SAMAYESVÀHÀ.

Dùng Ấn với Đại Minh của nhóm như vậy tác Kết Giới xong. Hành nhân hướng về Bản Tôn, Hiền Thánh cung kính làm lễ.

Tiếp kết Căn Bản Ấn. Co lóng giữa của hai ngón cái thì thành Ấn. Kết Ấn này, tụng Đại Minh, quỳ gối hiến Ứ Già dùng rưới tắm Hiền Thánh.

Đại Minh là:

Án Tả, sa phộc hạ.

OMÏCASVÀHÀ.

Tiếp kết Đồ Hương Ấn. Đem ngón cái phải đặt ở lóng thứ nhất của ngón trỏ phải, lại bung duỗi rộng thì thành Ấn.

Kết Ấn này, tụng Đồ Hương Đại Minh là:

Án, tôn, sa phộc hạ.

OMÏ CUNÕSVÀHÀ.

Tiếp kết Hoa Ấn. Tay phải đem ngón cái và lóng thứ nhất của ngón trỏ cùng vịn nhau thì thành Ấn.

Dùng Ấn này hiến hoa, tụng Hoa Đại Minh là:

ÁnTôn, sa phộc hạ.

OMÏ CUNÕ SVÀHÀ.

Tiếp kết Hương Ấn. Đem ngón giữa và ngón cái của tay phải cùng vịn nhau thì thành Ấn.

Dùng Ấn này hiến hương đốt, tụng Hương Đại Minh là:

Án, lệ, sa phộc hạ.

OMÏLESVÀHÀ.

Tiếp kết Đăng Ấn. Tay trái dem ngón cái đè lóng của ngón giữa thì thành Ấn.

Kết Ấn này, tụng Hiến Đăng Đại Minh là:

ÁnNễ, sa phộc hạ.

OMÏLESVÀHÀ.

Tiếp kết Xuất Sinh Ấn. Tay trái đem ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của ngón giữa thì thành Ấn. Kết Ấn này hiến thức ăn.

Tụng Hiến Thực Đại Minh là:

Án Tổ, sa phộc hạ.

OMÏCUSVÀHÀ.

Như vậy kết Ấn, tụng Minh làm mọi thứ cúng dường phụng hiến tất cả Hiền Thánh trong Man Noa La xong.

Lại tác quán tưởng: Trong tất cả thế gian có bao nhiêu thứ vật cúng dường được nhìn thấy, nghe thấy, hành nhân vận tâm đem cúng dường tất cả Hiền Thánh ở mười phương.

Lại kết Phổ Cúng Dường Ấn. Trước tiên chắp tay đỉnh lễ xong, lại đem mười ngón tay cùng cài chéo nhau thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Phổ Cúng Dường Đại Minh là:

Nẵng mạc tát lị phộc một đà mạo địa tát đỏa nẫm. Tát lị phộc tha, ổ nạp nga đế, Sa Bà la tứ hàm, nga nga nẵng kiếm, sa phộc hạ.

NAMAHÏ SARVA BUDDHA BODHISATVÀNÀMÏ.

SARVATHÀ KHAMÏ UDGATE SPHARA HÌMAMÏ GAGANAKAMÏSVÀHÀ.

Như vậy cúng dường xong. Tiếp dùng kệ ca ngợi Tam Bảo với Đẳng của Quán Tự Tại, Kim Cương Thủ Bồ Tát.

Tán Phật là:

Đức Phật đại từ bi

Điều phục các hữu tình

Trú biển công đức phước

Vì thế con tán lễ.

Tán pháp là:

Lìa dục, vui tịch tĩnh

Hay đoạn các nẻo ác

Thuần một lý chân như

Vì thế con tán lễ.

Tán Tăng là:

Kiên cố giữ Thi La Giới Thanh Lương

Chứng được đạo giải thoát

Trú Cõi công đức lớn

Vì thế con tán lễ.

Tán chư Hiền Thánh là:

Đát Noan nễ vĩ, tát bát đa nhĩ nẵng, câu đê, la tỳ bát la dụ nga.

Nại dã sa đa, nại dã tha bát na dục đế nẵng, tả lệ tổ lệ nẵng.

Dục khất đa ma thí sa nạp lị đa, bát la xá ma dã, tôn nễ.

Sa hạ phộc đế, tam ma la, để đát tả câu đổ vĩ bát để.

Tát lị phộc một đà duệ, bát la thiết sa dã, tam bột lị đá dã, ngu ni li ngu lỗ.

A phộc lộ cát đa tắc nghê dã, dã nẵng mộ nĩnh đát dã, ma ha đát ma nễ.

Ma hạ ma la dã, tán noa dã, vĩ nễ dã la nhạ dã, sa đạt duệ.

Nạp lị nan đa ma ca dã, thất tả nẵng ma tất đế, phộc nhật la bá noa duệ.

Lại nữa Hành nhân tán thán như vậy xong.

Lại nói lời sám hối là: Đệ tử họ tên… từ vô thủy cho đến nay, ở trong luân hồi tạo nghiệp chẳng lành, hoặc tự làm hoặc dạy người làm cho đến thấy nghe đều tùy vui với tất cả sự bất thiện.

Nay đối trước Tam Bảo xin phát lộ sám hối. Từ nay trở đi, con xin phụng trì cấm giới chẳng dám làm điều ác nữa.

Lại từ nay trở đi đối với hết thảy các Đại Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn cho đến tất cả chúng sinh đã làm pháp lành thì con đều tùy vui.

Nói xong liền kết Căn Bản Ấn, tụng Căn Bản Minh ba biến.

Hành nhân lại chắp tay bạch rằng: Con họ tên… đã mời chư vị đến để cúng dường.

Nếu chẳng được đầy đủ, hoặc quên mất thứ tự chẳng y theo pháp tắc, cầu xin Bồ Tát với chúng Hiền Thánh đại từ đại bi vui vẻ bỏ qua cho.

Tiếp kết Ứ Già Ấn. Dùng Căn Bản Ấn lúc trước chỉ sửa ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của ngón trỏ thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Ứ Già Đại Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A lị già, bà nga phộc đế, bát la đế tha, sa phộc hạ.

OMÏCALE CULE CUNÕDHEÀRGHA BHAGAVATI PRATICCHASVÀHÀ.

Lại nữa Hành nhân quán tưởng thân của mình là Tôn Na Vồ Tát. Trước tiên kết Ấn, dùng hai tay nắm Kim Cương Quyền. Đặt hai ngón trỏ và ngón út như cây kim.

Tiếp duỗi các ngón còn lại cũng như cây kim.

Lúc kết Ấn này thì quán tưởng thân mình thành Tôn Na Bồ Tát.

Ở trên đỉnh đầu hiện chữ Án là Như Lai Ô Sắt Nị Xá Như Lai Đỉnh.

Tiếp ở hai con mắt hiện chữ Tả thành Ô Sắt Nị Xá Đại Luân Đỉnh Đại Luân.

Tiếp ở trên cổ hiện chữ Lệ thành Bất Động Tôn Minh Vương tay cầm Loa với sợi dây.

Tiếp ở trên trái tim hiện chữ Tốt thành Quán Tự Tại Bồ Tát.

Tiếp ở hai cánh tay hiện chữ Lệ thành Quang Tích Minh Vương.

Tiếp ở trong trái tim lại hiện chữ Lệ thành vị Hiền Thánh có ba mắt.

Tay cầm hoa sen, vòng dây, bình Quân Trì…

Tiếp ở trong lỗ rốn hiện chữ tốt?

Tôn thành Bản Tôn Tôn Na Bồ Tát.

Tiếp ở hai bắp vế hiện chữ Nễ thành Kim Cương Thủ Bồ Tát.

Tiếp ở trong hai bắp chuối chân hiện chữ Sa thành I Ca Nhạ Tra Bồ Tát Nhất Kế Bồ Tát mặt có ba mắt, sáu cánh tay, thân màu xanh, dùng da voi làm áo.

Tiếp ở hai bàn chân hiện chữ Ha thành Phộc Nhật La Nẵng Khế Bồ Tát như màu pha lê.

Như vậy quán tưởng xong.

Tiếp liền trì tụng.

Pháp Trì Tụng cũng có hai thứ: Một là vô tướng, hai là hữu tướng.

Vô Tướng Trì Tụng: Trước tiên kết Thiên Định Ấn, ngồi Kiết Già, ngay thẳng thân mình, lắng tâm, hơi cúi đỉnh đầu và cổ. Ở trên đầu lỗ mũi tưởng hơi thở ra vào chẳng mạnh chẳng yếu, chẳng chậm chẳng gấp.

Tâm duyên vào Đại Minh chuyên chú trì tụng đừng để gián đoạn cũng đừng để cho tâm có sự mệt mỏi. Trì Tụng như vậy gọi là tối thượng.

Hữu Tướng Trì Tụng: Liền cầm chuỗi đếm số.

Mỗi lần Trì Tụng nên để ý đến Nguyên Số thẳng đến gặt được Tất Địa, chẳng được thiếu một số.

Nếu thiếu một số gọi là Gián Đoạn ắt đối với việc mong cầu chẳng được thành tựu.

Mỗi lúc muốn Trì Tụng, trước tiên kết Sổ Châu Ấn co lóng giữa của ngón vô danh, ngón trỏ cùng vịn lóng giữa của ngón giữa thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng Đại Minh là:

Án Hát nạp bộ đế, vĩ nhạ duệ, tất địa, tất đà lị tán, sa phộc hạ.

OMÏADPUTE VIJAYE SIDDHI SIDDHA ARTHASVÀHÀ.

Tụng Minh này xong. Liền chắp hai tay lại nâng tràng hạt, tụng Đại Minh bảy biến gia trì tràng hạt đó.

Đại Minh là:

Án Nẵng mô bà nga phộc đế, tất đề, sa đạt dã, sa đạt dã, tát lị phộc ly tha, sa đạt nễ, tất đà ly tán, sa phộc hạ.

OMÏ NAMO BHAGAVATESIDDHI SÀDHAYA SÀDHAYASARVA ARTHA SÀDHANI SIDDHA ARTHASVÀHÀ.

Tụng Minh này xong. Liền cầm tràng hạt lễ Tam Bảo, Hiền Thánh sau đó y theo pháp trì tụng đầy đủ ký số.

Lại tụng Phật Nhãn Đại Minh bảy biến. Kết Căn Bản Ấn, lại tụng Phật Nhãn Minh ba biến hiến Ứ Già cho Hiền Thánh.

Lại bạch rằng: Nay con đem hết sự Trì Tụng này phụng hiến lên Bồ Tát với hiến hương, hoa, đèn, dầu thơm mà cúng dường.

Tiếp lại dùng Phật Nhãn Đại Minh mà tự Ủng Hộ và Kết Giới.

Tiếp dùng A Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn hộ năm nơi trên thân.

A Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn: Đặt hai bàn tay song song nhau, đảo ngược đầu hai ngón vô danh vào trong lòng bàn tay, hai ngón giữa và hai ngón út như cây kim.

Lại ngón trỏ như cây kim đặt bên cạnh hai ngón cái thẳng xuống dưới và đưa hai ngón vô danh vào lòng bàn tay thì thành Ấn.

Tùy theo Ấn, tụng A Tam Hàm Nghĩ Nễ Đại Minh là:

Án, a tam hàm nghĩ nễ, vĩ la nại duệ đế, hồng, phát tra, sa phộc hạ.

OMÏ ASAMÀMÏGNI VÌRADAYETE HÙMÏ PHATÏSVÀHÀ.

Tiếp kết Căn Bản Ấn và tụng Đại Minh dùng để Phát Khiển, Tướng Ấn như trước.

Đại Minh là:

Nga tha để, cật lị hệ đát phệ hàm. Hiến đường, bổ sắt bán, độ bán, mạt lăng, bát la nễ bán Tả, lạc khật xoa, bát la để hạ đa, phộc la bát la khất la di, sa phộc hạ.

GACCHATI AGRI HITANVESÏIN GHANÏTÏAMÏ PUSÏPAMÏ DHÙPAMÏ MÀLAMÏ PRADÌPTA RAKSÏA APARATIHATA VARA PRAKARA ME SVÀHÀ.

Như vậy Phát Khiển xong. Lại cầm tràng hạt hướng về trái tim làm Ủng Hộ. Lại kết Cam Lộ Quân Trà Lợi Ấn mà tự ủng hộ xong. Sau đó đỉnh lễ Chư Phật Bồ Tát rồi đứng dậy ra khỏi Đạo Trường.

Chỉ được đọc Kinh Đại Thừa Phương Quảng, Hoa Nghiêm và Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Hoặc xoa tô Man Noa La và làm Tháp Tượng, chẳng được nói chuyện Thế Tục với sách vở Thế Gian. Đây là nghi thức bình thường thướng thức.

Lúc Hành nhân ăn thường dùng Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Đại Minh gia trì xong, sau đó có thể ăn. Hoặc lúc ngủ nghỉ cũng tụng Căn Bản Đại Minh tác ủng hộ xong liền có thể ngủ nghỉ.

Căn Bản Đại Minh là:

Nẵng mạc tam mãn đa một đà nẫm. Aùn Phộc lan na nễ đế nhĩ du, ma lý nễ, sa phộc hạ.

NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ.

OMÏVALAMÏDADE MALINISVÀHÀ.

Tiếp lại nói pháp quán tưởng chữ vi diệu của Phật và Hiền Thánh.

Chữ này đều là căn bản của Chư Phật, Hiền Thánh biểu thị cho lý chân thật cho đến vô tướng trì tụng với pháp của bốn loại của nhóm tức tai đều được diễn nói trong pháp của Tôn Na.

Nếu Hành nhân tác pháp tức tai, tăng ích, kính ái, giáng phục đối với các pháp cần phải biết rõ mọi thứ tự như nghi. Nay sẽ lược nói về chữ vi diệu.

Ở trong Man Noa La an bày chín vị trí theo thứ tự là: Thứ nhất ở góc Đông Bắc đặt chữ ÁN. Thứ hai ở góc Đông Nam đặt chữ TẢ. Tiếp chữ LỆ. Tiếp chữ TỐT.

Như vậy an bốn góc xong. Tiếp ở vị trí trung ương đặt chữ TÔN. Tiếp đặt chữ LỆ.

Tiếp đặt chữ NỄ. Tiếp đặt chữ SA. Tiếp đặt chữ HA. Chín chữ này thành Căn Bản Đại Minh, thành chín vị Hiền Thánh.

Lại nữa chữ ÁN OMÏ là pháp giới vô tướng.

Chữ TẢ CA là Đại Luân.

Chữ LỆ LE là Bất Động Tôn.

Chữ TỐT CU là Quán Tự Tại.

Chữ LỆ LE là Bất Không Quyến Sách Bồ Tát.

Chữ TÔN CUNÕ là Tôn Na Bồ Tát.

Chữ NỄ DHE là Kim Cương Thủ Bồ Tát.

Chữ SA SVÀ là I Ca Nhạ Tra Bồ Tát.

Chữ HA HÀ là Phộc Nhật La Nẵng Khế Bồ Tát.

Nếu đem chữ Án làm đầu thì hay thành tựu tất cả pháp.

Nếu chữ Tả thì đối với ba pháp tức tai, tăng ích, giáng phục có đại thế lực.

Chữ Lệ hay phá hoại Thiết Đốt Lỗ Oan Gia cùng tác phát khiển với pháp ủng hộ sẽ có công lực cực lớn.

Chữ Tốt hay phá hoại và đánh tan quân địch như Kim Xí Điểu hay ăn loài Rồng.

Chữ Lệ hay phá các đại ác có lực tối thắng.

Chữ Tôn hay thành tựu tất cả việc, hay phá các cấm phộc kiên cố.

Chữ Nễ hay phá các Ma ác với các đại ác, cũng hay làm pháp nhập ngụ.

Chữ Sa hay tự ủng hộ với hay phá oán, cũng hay khiến làm pháp bát nhập ngụ?

Chữ Ha hay trừ đại độc với tất cả bệnh.

Chữ của nhóm như vậy giống bát chính đạo hay khiến cho hữu tình giải thoát luân hồi, sau đó được tịch tĩnh.

Lại nữa Hành nhân quán tưởng chữ vi diệu như vậy ở thân phần của mình, mỗi mỗi hiện rõ trước mặt, hoặc biến sắc tướng hoặc biến hình nghi.

Nếu được hiện rõ như vậy trước mặt thì hay diệt được tất cả tội nghiệp trong thân, đoạn trừ phiền não.

Khởi đầu trong chữ Án hiện trên đỉnh đầu có màu hoàng kim vàng chóe.

Tiếp tưởng chữ Tả hiện ở hai con mắt cũng có màu vàng.

Tiếp tưởng chữ Lệ hiện ở trên cổ có màu đen đậm.

Tiếp tưởng chữ Tốt hiện ở lỗ rốn như màu sen hồng hoặc màu xanh.

Nơi hiện màu ấy tùy theo pháp tác.

Tiếp tưởng chữ Lệ hiện ở hai cánh tay hóa thành Tượng Hiền Thánh hoặc có màu vàng ròng hoặc có màu đỏ.

Tiếp tưởng chữ Tôn hiện ở trên trái tim biến thành Tôn Na Bồ Tát có thân màu trắng.

Tưởng chữ Nễ hiện ở hai bắp đùi.

Tưởng chữ Sa hiện ở hai bắp chuối chân.

Tưởng chữ Hạ hiện ở hai bàn chân.

Tưởng chữ như vậy ở trên thân phần của mình, mỗi mỗi hiện rõ trước mặt.

Được hiện rõ trước mặt xong thì cắt đứt các phiền não, diệt tất cả tội cho đến hay khiến cho nội tâm sáng tỏ tinh khiết như tướng bụi che tùy theo phất phủi mà trong sạch, tinh tiến. Chư Thiên thảy đều kính yêu.

Lại nữa tưởng chữ Vi Diệu biến thành Bản Vị Hiền Thánh.

Quán chữ thành bản thân Tôn Na Bồ Tát có thân màu trắng, mặt có ba mắt, có mười tám cánh tay và toàn thân rực lửa, ngồi trên hoa sen trắng và ở trong thân hay sinh ra Chư Phật.

Nếu quán chữ thành Đa La Bồ Tát thì thân có màu xanh, hiện tướng phẫn nộ ló nanh nhọn ra bên ngoài, mặc áo da voi, một tay cầm kiếm, một tay cầm đầu lâu chứa đầy máu.

Nếu quán chữ thành I Ca Nhạ Tra Bồ Tát thì bên phải: Tay thứ nhất cầm cây gậy báu, tay thứ hai cầm sợi dây.

Bên trái: Tay thứ nhất cầm Kiệt Trung Nga cây đao, tay thứ hai cầm đầu người nhỏ máu.

Nếu quán chữ thành Phộc Nhật La Nẵng Khế thì thân có màu như mặt trăng, hai tay bên phải cầm kiếm với cây búa Phủ Việt, hai tay bên trái cầm sợi dây với hoa sen.

Vị Phộc Nhật La Nẵng Khế này là thân sở hóa của Mã Đầu Minh Vương có uy lực lớn.

Nếu bị Đắc Xoa Ca Long Vương làm hại thì tất cả các lực lượng không có thể cứu độ, chỉ có Phộc Nhật La Nẵng Khế mới có thể cứu tế được thôi.

Nếu Hành nhân dùng ở mọi nơi thì đều được thành tựu như Báu Như Ý, tất cả tùy theo câu.

Lại nữa ở các Đại Minh thêm chữ sỡ dụng thì mỗi mỗi đều thành tựu pháp.

Nếu thêm chữ Aùn OMÏ thì hay tác cảnh giác với Phát Khiển.

Nếu thêm ba chữ Aùn, Lệ, Hồng OMÏ LE HÙMÏ thì sức hay chặt cắt.

Nếu thêm năm chữ Aùn, La, Hồng, Phát tra OMÏ LA HÙMÏ PHATÏ thì sức hay cảnh bố với hay phá hoại cũng hay ủng hộ.

Nếu thêm bốn chữ Aùn, Tổ, nẵng, mạc OMÏ CU NAMAHÏ thì hay thành tựu pháp kính ái.

Nếu thêm ba chữ Án, tổ, hồng OMÏ CU HÙMÏ thì hay đẩy lui quân địch Tha Quân.

Nếu thêm bốn chữ Aùn, lệ, phát tra OMÏ LE PHATÏ thì chận đứng được cuộc chiến đấu lớn.

Nếu làm pháp tức tai, dùng Đại Minh này là:

Án Tôn, a mẫu yết tả, phiến đỉnh, câu lỗ, sa phộc hạ.

OMÏ CUNÕAMOGHASÏYA ‘SÀNTIMÏ KURUSVÀHÀ.

Nếu làm pháp tăng ích, dùng Đại Minh này là:

Án Tôn, a mẫu yết tả, lạc xoa di, câu lỗ, sa phộc hạ.

OMÏ CUNÕAMOGHASÏYA LAKSÏMI KURUSVÀHÀ.

Nếu làm pháp kính ái dùng Đại Minh này là:

Án Tôn, nẵng mạc.

OMÏCUNÕNAMAHÏ.

Nếu chận đứng cuộc chiến đấu lớn, dùng Đại Minh này là:

Án Tôn nễ, hồng, phát tra.

OMÏCUNÕDHE HÙMÏ PHATÏ.

Lại làm pháp tức tai, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần cầu nguyện.

Đại Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết tả, phiến đỉnh, câu lỗ, sa phộc hạ.

OMÏ CALE CULE CUNÕDHEAMOGHASÏYA ‘SÀNTIMÏ KURUSVÀHÀ.

Lại làm pháp tăng ích, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần cầu nguyện.

Đại Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, sa phộc hạ.

OMÏCALE CULE CUNÕDHESVÀHÀ.

Lại làm pháp kính ái, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần cầu nguyện.

Đại Minh đồng với pháp tăng ích.

Lại làm pháp giáng phục. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên ngưới đó, nói việc cần cầu nguyện.

Đại Minh là:

Nẵng mạc tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết phộc thi, câu lỗ, sa phộc hạ.

NAMAHÏ CALE CULE CUNÕDHEAMOGHA VA’SI KURUSVÀHÀ.

Lại làm pháp câu triệu.

Tụng Đại Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu Yết Ma yết lị sa dã, hột lị.

OMÏ CALE LULE CUNÕDHEAMOGHAM AKARSÏÀYA HRÌHÏ.

Lại khu trục xua đổi oan gia. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần mong cầu.

Đại Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết mẫu tả tra dã, hồng.

OMÏ CALE CULE CUNÕDHEAMOGHAM UCCÀTÏÀYA HÙMÏ.

Lại có pháp phá hoại ma oán.

Đại Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu Yết Ma la dã, hồng, phát tra.

OMÏ CALE CULE CUNÕDHEAMOGHA MÀRÀYA HÙMÏ PHATÏ.

Lại làm pháp cực phá hoại ma oán.

Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A điên đa ma la ni, sa phộc hạ.

OMÏ CALE CULE CUNÕDHEAJITA MÀRÀNÏISVÀHÀ.

Lại làm pháp đại tức tai. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng việc thành tựu mong cầu ấy.

Đại Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, sa phộc hạ.

OMÏCALE CULE CUNÕDHESVÀHÀ.

Lại làm pháp đại kính ái. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên của người ấy, nói việc cần thành tựu.

Đại Minh là:

Nẵng mạc tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, nẵng mạc a điên đa, phộc thi duệ, hột lị.

NAMAHÏ CALE CULE CUNÕDHE NAMAHÏ AJITA VA’SÌYEHRÌHÏ.

Lại làm pháp đại câu triệu.

Đại Minh là:

Án Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, hột lị.

OMÏCALE CULE CUNÕDHEHRÌHÏ.

Lại làm pháp cực hoại làm hư nát hết đại oán. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên của người đó, nói việc cần làm.

Hồng Aùn, tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, hồng A điên đổ tả tra xưng việc… phát tra, tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, phát tra.

HÙMÏOMÏ CALE CULE CUNÕDHE HÙMÏAJITA UCCÀTÏA.

xưng việc cần làm… PHATÏCALE CULE CUNÕDHE PHATÏ.

Đại Minh của nhóm như vậy, mỗi mỗi đều tùy theo nơi tác pháp. Xưng nói việc ấy thì không có gì không thành tựu.

Chư Phật đã nói: Giáo của Tôn Na Bồ Tát hay thỏa mãn nguyện của tất cả chúng sinh.

Dùng kệ ca ngợi rằng:

Công đức của Tôn Na

Tâm vắng lặng thường trì

Tất cả các nạn lớn

Không thể xâm phạm người

Trên Trời và thế gian

Thọ phước ngang bằng Phật

Lại thêm báu như ý

Quyết định không gì bằng.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần