Phật Thuyết Kinh Nhất Tự Kỳ đặc Phật đảnh - Phẩm Ba - Phẩm Mạn Trà La Nghi Quỹ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bất Không, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
NHẤT TỰ KỲ ĐẶC PHẬT ĐẢNH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bất Không, Đời Đường
PHẨM BA
PHẨM MẠN TRÀ LA NGHI QUỸ
Bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát dùng sức Oai Thần của Đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, ở trước mặt Đức Thế Tôn, chắp tay lễ xong, rồi bạch Phật rằng: Con thỉnh Đức Thế Tôn nói Chân Ngôn chẳng thể nghĩ bàn.
Thế Tôn! Chư Phật Thế Tôn Minh Vương Phật Đảnh chẳng thể nghĩ bàn, giả sử Bồ Tát trụ mười địa cũng chẳng thể nhìn ngó, huống chi là hàng Thích, Phạm, Hộ Pháp Thiên.
Nay thỉnh Đức Thế Tôn Ứng Chúng Chánh Biến Tri. Nguyện xin nói Tam Muội Da Mạn Trà La là điều mà Phật Thế Tôn lúc trước ở quá khứ đã nói. Do nhập vào Mạn Trà La này, tức thành nhập vào tất cả Mạn Trà La. Ở đây Quán Đảnh này thì ở tất cả Mạn Trà La được Quán Đảnh. Ở đây được ấn khả thì ở tất cả Mạn Trà La được ấn khả. Ở đây được nhập vào thì vượt qua tất cả ma đạo.
Do thấy điều này thì giải thoát được tất cả Ma Đạo. Do nhập vào đây thì được bất thoái chuyển. Ở đây được Quán Đảnh thì ở tất cả Chân Ngôn Ấn được tự tại. Do nhập vào đây thì Trì Kim Cang nhiếp thọ được lìa tất cả tội. Do nhập vào đây thì hay kham nhận được tất cả sự nghiệp.
Do nhập vào đây thì an vui với phương tiện dễ, hay thành Đại Minh Vương, lìa tất cả chướng nạn.
Do nhập vào đây, hoặc thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân hay thành tựu vô lượng công đức.
Thế Tôn! Con từng vì loài người tu Nhất Tự Minh Chuyển Luân Vương này, được vô lượng Bồ Tát Tam Ma Địa, được sự gia trì của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Thế Tôn! Con từng nghĩ nhớ vượt qua hằng hà sa số kiếp, vào thời ấy có Đức Phật tên là Bảo Kế Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Thế Giới tên là Diệu Tuệ, lúc đó con là người nghèo túng, dùng phương tiện bán củi để sinh sống.
Con nghe thấy Đức Bảo Kế Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri ấy thành tựu vô lượng công đức nếu ở trước mặt Đức Như Lai phát nguyện thì Đức Như Lai đều khiến cho thành tựu.
Khi ấy, con ở tại nhà tác suy nghĩ này: Nay con thỉnh Đức Bảo Kế Như Lai, đặt bày cơm với thức ăn phạn thực. Như thế con dậy sớm đi bán củi, mua sắm thức ăn uống rồi đi đến chỗ của Đức Thế Tôn, thỉnh Phật dùng Phạn Thực thì Đức Như Lai nhận sự thỉnh cầu.
Con ở trước mặt Đức Phật Thế Tôn phát niềm tin trong sạch rộng lớn, phụng hiến thức ăn, lễ Đức Phật xong, rồi nói lời nguyện là: Tất cả chúng sanh, đừng để cho họ chịu sự nghèo túng.
Đức Như Lai ấy biết con có tâm tin tưởng mãnh lợi thanh tịnh, nên vì con nói là: thiện nam tử hãy giữ gìn Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương này, rộng vì ta nói phước lợi của Bản Giáo. Tức Đức Thế Tôn ấy vì con nói, con vui vẻ phụng hành, con dùng đại tinh tiến siêng năng mạnh mẽ, dùng thân này được Đại Minh Vương được Vô Ngại Nghiêm Tam Ma Địa.
Thế Tôn! Do Tam Ma Địa này thành tựu vô lượng trăm ngàn Trì Minh nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Thế Tôn! Nay con biết Như Lai Phật Đảnh này chẳng thể nghĩ bàn, như vậy trong ba mươi hai tướng Đại Nhân thì Phật Đảnh là tối thắng, như vậy trong tất cả Chân Ngôn thì Phật Đảnh Chân Ngôn này là tối thắng, như vậy trong Thế Tôn Thiên thì Đức Phật là Đại Sư vô thượng, Phật Đảnh Luân Vương như vậy là Minh Vương trong tất cả Chân Ngôn. Do rộng lớn như vậy, nên con nguyện xin Đức Thế Tôn Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì con nói Mạn Trà La Maṇḍala.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Ông là bậc đại bi, là Đại Bồ Đề Tát Đỏa. Đối với hữu tình, thể đại bi sanh vô lượng đại bi lợi ích cho hữu tình.
Này Đại Tát Đỏa! Ông nên nghe cho kỹ! Ta lược nói Mạn Trà La là Vua trong tất cả Mạn Trà La.
Tất cả Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già ở trong tập hội. Nơi du hý của tất cả Phật Bồ Tát, nơi gia trì của Kim Cang Thủ Đại Bồ Tát Luân Vương Tam Muội Da, làm lợi ích của các Bồ Tát Tam Ma Da… do trì tụng Luân Vương này.
Thiện Nam Tử! Như Lai đối với các hữu tình làm lợi ích, buông bỏ thân cuối cùng được an vui, không có tự hoại, được Đại Mạn Trà La Phật Đảnh Luân Vương. Người tu hành được đầy đủ tất cả ý nguyện.
Này thiện nam tử! Trước tiên nên, A Xà Lê Ācārye ở Tâm Đại Bồ Đề bền chắc, ở đại nguyện quyết định, thường niệm tụng giới bình đẳng phạm hạnh, đủ đại bi, biến ơn, đa văn, biết báo ơn, hộ giữ cấm giới… nên vẽ Luân Vương Mạn Trà La. Khác với điều này mà dạy bảo vẽ thị bị rơi vào nẻo ác. Kẻ ấy nên trước tiên làm sạch đất ấy, nơi có nhiều hoa quả, những nơi ở đỉnh núi, có Tòa Kim Cang, chuyển bánh xe Pháp là thắng thượng thành tựu.
Nên vẽ ở Đông Bắc làm chỗ thấp hơn, đất ấy ngay ngắn bằng phẳng. Nơi chẳng chứa hang lỗ, không có gai góc, xương, lông, tóc. Móng tay, vỏ mai của loài thú. Nơi lìa đá cứng, đầu lâu, cát dơ, bùn đen.
Nếu màu đất tốt với không có thứ uế ác như trên thì nên đào xuống đất, rồi lại lấp đầy nện cho chặt. Nếu đất đã bền chặt mà có đất dư tức là thượng xứ thì kham làm thành tựu. Nếu đất chẳng đủ thì chỗ này chẳng dùng được, nên đi tìm thắng xứ.
Nghiệm đất xong, ở đất có tướng mạo như vậy. Ở nơi rộng lớn hợp ý, cây cối đoan nghiêm trang nghiêm. Nơi có đầy đủ công đức như vậy, nên vẽ Mạn Trà La.
Khiến Đồng Nữ hợp dây thừng màu trắng, xe làm dây ngũ sắc, hoặc dùng tơ ngó sen chẳng đứt đoạn không có kết loại?
Không có lẫn lộn thứ khác, hoặc dùng Dã Ma cây gai dầu hoang, cây lanh hoang, hoặc dùng sợi dây chăn trâu mục ngưu thằng, nên dùng ghép ráp đất Bính Địa. Bắt đầu lấy sợi dây đã se hợp, dùng tâm Chân Ngôn một trăm lẻ tám biến, khiến Hộ Ma Homa.
Tâm Chân Ngôn là:
Nam ma tam mạn đa bột đà nam. A bát ra để ha đa xả sa na nam. Úm, đát tha nghiệt đô sắt ni sa, a na phược lô chỉ đa, một đà ni, chước yết ra, mạt lật để, hồng, nhạ phạ ra, nhạ phạ ra, đà ca đà ca, độ na, vi độ na, đát ra sa dã, ma la du sai ra da, ha na ha na, bạn nhạ bạn nhạ, ám ác cược cược, bát lung, xí ni, quân tra lý ni, a bát ra nhĩ đa, tát đát ra, đà lý ni, hồng phát, sa phạ ha.
Đây gọi là Luân Vương Tâm. Ở trong Mạn Trà La, đem hương hoa đã để trước tiên trong Đàn, gia trì một trăm lẻ tám biến. Ở trong Đàn hiến Át Già xong, sau đó ghép ráp tất cả màu sắc, đều dùng Tâm Chân Ngôn gia trì. Trước tiên vẽ màu trắng, tiếp đến màu đỏ, tiếp đến màu vàng, tiếp đến màu xanh lục, tiếp đến màu đen.
Nhóm phấn như vậy, hoặc dùng San Hô, vàng, Ma Ni, trân châu, Phệ Lưu Ly… nên nghiền thành bột. Hoặc dùng phấn đỏ của loại lúa, mọi thứ nhuộm làm màu sắc, hòa với hương. Thứ tự của danh sắc như vậy. Nếu chẳng được màu như trên thì lấy đất màu đỏ, đất màu vàng, đất màu xanh lục mà dùng Hộ thân của mình, hộ nơi của Mạn Trà La, hộ đệ tử đều dùng tâm Chân Ngôn. Tất cả nên làm, tụng trì Minh Vương Tâm Chân Ngôn nên ghép ráp Mạn Trà La.
Dùng Tùy Tâm gia trì vào nước hương, rưới vảy trên Đàn Tùy Tâm Chân Ngôn là:
Nam mạc tam mạn đa bột đà nam. A bát ra để ha đa xả sa na nam. Úm, a bát ra nhĩ đa, đặc.
Đây gọi là Luân Vương Tùy Tâm. Dùng Chân Ngôn này mỗi mỗi gia trì vào hương hoa bôi, hoa, hương đốt, thức ăn uống, Át Già rồi phụng hiến. Liền triển chuyển, bắt đầu từ phương Y Xá Na Đông Bắc. Ở trung ương an Yết Thứ Xa cái bình chứa đầy nước, các hạt giống với thuốc. Dùng lụa cột buộc cổ bình. Ở bốn góc giăng dây bên hai con đường.
Nếu sợi dây bị đứt, hoặc rối loạn, hoặc thắt gút thì dùng bơ, dùng Lục Tự Biện Sự Chân Ngôn Hộ Ma một trăm lẻ bốn biến.
Chân Ngôn là:
Na mạc tam mạn đa bột đà nam, a bát ra để ha đa xá sa na. Úm, tra lô úm, mãn đà, sa phạ ha.
Tụng một trăm lẻ tám biến liền được ngưng dứt tai nạn tức tai
Nếu giăng dây không thẳng, tức thân chẳng hài hòa, nếu dây rối loạn tức bị mê hoặc. Khi cầm sợi dây thời chẳng nên quấn lại, nếu quấn lại tức thân bị tật bệnh. Thế nên khi giăng dây cần phải cẩn thận khiến cho nước cốt của phấn thấm rõ, tức khiến cho lối đi thô kệch, nhỏ mịn được đều. Các cây cọc ở bốn góc chẳng quá thô kệch, chẳng quá nhỏ mịn, nên ứng định phải tương xứng với Đàn. Như vậy là nhóm dây ở bốn phương, bốn cửa.
Ở trung ương, an Phật Đảnh Luân Vương hoặc dùng Phật Ấn.
Ở bên trái Đức Phật, an Phiền Não Bạc Pháp Luân. Lại vẽ hai Phật Đảnh Vương là Quang Tụ, Cao Cao Phật Đảnh Vương. Cũng hai phía phải trái, an Bạch Tản Cái Phật Đảnh, Thắng Thắng Phật Đảnh, ba Phật Đảnh, Phật Nhãn, Phật Hào Tướng, Thước Khất Để Nha.
Nên an Phật Từ Hỏa Phước Đức Minh với ba Bộ Mẫu Minh là Uy Đức Minh, Tối Thắng với Thương Yết Lê. A Nan Ānanda, Tu Bồ Đề Subhūti, cái bát với tích trượng… theo thứ tự vẽ hai bên phải trái của Đức Phật.
Bốn cửa bên ngoài, hai bên trái phải đều nên vẽ Sứ Giả của Phật. Trong cửa Tây vẽ Vô Năng Thắng Aparājita kèm ở trong Giới Đạo của cửa, vẽ hai vị Long Vương Nan Đà Nanda, Ô Ba Nan Đa Upananda. Bốn cửa vẽ Trì Liên Hoa Padma dhāra, Trì Kim Cang Vajra dhāra.
Hai bên phải trái của Đức Phật vẽ Ma Hê Thủ La Maheśvara với vợ, Câu Vĩ La Thiên Kubera, mỗi mỗi vật khí cầm nắm trì trì, nên để ở hai bên cửa của tất cả nơi chốn xứ môn.
Viện thứ ba nên lấy bằng nửa viện thứ hai. Ở chính giữa của viện thứ ba, vẽ Phạm Vương với Chư Thiên, Ca Lâu La Garuḍa, hàng Hộ Thế Loka pāla với Chư Thiên khác, tùy ý mà vẽ. Cũng nên vẽ quyến thuộc của Bản Tộc trong ba Bộ. Tất đầu y theo Vô Năng Thắng Đàn Nghi Quỹ nói trong Kim Cang Khởi.
Vẽ Đàn xong. Nên lấy cái bình mới, đáy bình chẳng được đen, khiến ứng với lượng. Lấy lá A Ma La Sao cắm vào trong cái bình ấy. Lại lấy câu duyên quả để ở trên miệng bình đất này không có thì tùy theo Thời, lấy hoa quả, cành lá ngay thẳng mà dùng. Trong cái bình để đầy các vật báu với các hạt giống kèm với nước hương.
Dùng lụa màu cột buộc cổ bình rồi an ở trung ương với bốn góc của Đàn. Ở cửa đều dựng cây cột phan sát trụ, dùng hoa theo mùa thời hoa kết vòng hoa trang nghiêm kèm treo phướng phan. Nên để lư hương để đốt Trầm Thủy Hương, Đàn Hương.
Tức A Xà Lê ở bên cạnh Đàn, nên làm Hộ Ma Homa, dùng Căn Bản Chân Ngôn với dùng bơ để Hộ Ma một trăm lẻ tám biến. Sau đó Nghênh Thỉnh, dùng Minh Vương Đầu Đảnh Giáp Trụ tự gia trì thân. Đối với tất cả hữu tình, khởi tâm đại bi, lại phát tâm Bồ Đề. Lấy vật khí bằng vàng bạc, hoặc gạch ngói chứa đầy các hạt giống với hoa, hương, nước. Quỳ gối phải sát đất, kết Căn Bản Ấn.
Ứng thỉnh Minh Vương thì dùng Tâm Chân Ngôn y theo thứ tự. Ứng thỉnh hàng Trời, Rồng, Dược Xoa liền dùng Minh Vương Tâm gia trì trung bình một trăm lẻ tám biến. Sau đó lấy gỗ cây Bồ Đề xứ này dùng cây Dạ Hợp nhúm lửa, hòa với ba vị ngọt, dùng Đầu Vương Chân Ngôn Hộ Ma một trăm lẻ tám biến. Tức mỗi một Chân Ngôn đều Hộ Ma một trăm lẻ tám biến.
Đảnh Chân Ngôn là:
Nam mạc tam mạn đa bột đà nam, a bát ra để ha đa, xá sa na nam. Úm, chước yết ra mạt mật để.
Úm Đầu Chân Ngôn là:
Úm, chước yết ra mạt mật để. Hồng phát, sa phạ ha quy mạng đồng với bên trên.
Kết Hạ Thượng Phương Giới Chân Ngôn là:
Úm, Vi chỉ ra nõa, vi đặc phòng sa ni, ca bỉ la nhị, phạ lý ni, đát ra sa da, phạ nhật ra phệ xa, tát đế nao ra đặc phạ, năng sắt tra ra, ra khất sa, hàm phát.
Quy mạng đồng với Đảnh Chân Ngôn
Giáp Trụ Chân Ngôn quy mạng dựa theo lúc trước.
Úm, chước yết ra, mạt lật để, bát ra xa nhị đa, ra nại ra ra nại ra, sa tátma, xa lô sắt ni sa, ra khất sa, ra khất sa, hàm hồng phát, sa phạ ha.
Tường Chân Ngôn quy mạng dựa theo lúc trước ác mạc hác.
Như vậy, nói Ấn như lúc trước, tùy theo sự nghiệp nên dùng.
Tất cả Chân Ngôn Thiên Minh dùng căn bản Chân Ngôn an lập. Tức đối với Đức Thế Tôn, Chúng Thánh làm thực phẩm, tùy theo sức cúng dường, lễ tất cả Phật Bồ Tát, cúi năm Luân năm vóc sát đất.
Dùng bùn thơm xoa bôi bàn tay, kết Đại Tam Muội Gia Ấn là: Chắp hai tay lại giữa rỗng, các ngón đều hơi co như Phù Dung, gọi là Như Lai Tộc Tam Muội Da Ấn.
Sau đó mỗi mỗi tụng một trăm lẻ tám biến, cũng tụng Tâm Chân Ngôn, nhiễu quanh Mạn Trà La, khải bạch chúng Thánh: Con đối với điều chẳng nên làm mà làm, hết thảy lỗi vi phạm là thêm bớt Nghi Quỹ. Nguyện xin chúng Thánh bỏ lỗi cho Như thế lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy.
Đệ tử đã thọ nhận giới, người đối với pháp Chân Ngôn sanh niềm tin trong sạch, người đã phát tâm Bồ Đề, người đối với Tam Bảo có niềm tin trong sạch. Đệ tử có đức như vậy thì nên khiến vào đàn, hạn chế người vào là tám người.
Nếu muốn vào Mạn Trà La, tắm gội sạch sẽ, xoa bôi hương khắp thân, khiến lập bày lời thề. Nếu trái ngược tam muội da hoặc có sự ngu si sẽ bị đọa vào địa ngục Vô Gián. thiện nam tử, các ông thường hộ trì tam muội da như vậy.
Vì đệ tử mà nói Tam Muội Da, dùng lụa che mặt lại, kết Tam Muội Da Ấn, khiến xưng Tâm Chân Ngôn, khiến ném hoa, hoa rơi lên trên chỗ nào, tức xác định Bộ Tộc ấy. Như vậy dẫn đệ tử xong, mỗi mỗi vì đệ tử tụng Căn Bản Chân Ngôn, dùng bơ Hộ Ma một trăm lẻ tám biến.
Như vậy làm xong, nên nói Tam Muội Da: Các ngươi nên siêng năng tu nơi Chân Ngôn Hạnh Mantra caryā, chẳng nên sanh nghi ngờ nơi Đại Thừa, chẳng nên khinh rẻ tất cả Chư Thiên, trong Phật Giáo chẳng nên nghi hoặc.
Hàng đệ tử đối với A Xà Lê, thù thắng buông xả, bố thí, cúng dường, buông bỏ thân của mình, nên thọ nhận Chuyển Luân Vương Phật Đảnh. A Xà Lê đối với người ấy không có tâm tiếc lẫn, tâm chẳng thương xót, nên dạy bảo trao truyền Ấn Khế với Chân Ngôn.
Tức từ đây về sau, người thành tựu chẳng bị tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già… với tất cả hữu tình gây não hại được.
Đối với Chân Ngôn Thành Tựu đều hay kham nhận, được bất thoái chuyển, nhập vào địa vị của tất cả Bồ Tát, tất cả Chư Thiên chẳng thể tự hoại, liền thành nhập tất cả Mạn Trà La Tam Muội Da của thế gian xuất thế gian, tất cả Chư Thiên đều biết.
Thiện Nam Tử như vậy thành tựu Bồ Đề, liền được Tất Địa Siddhi, là nơi mà Trì Kim Cương gia trì, tùy hành an vui. Ta lược nói Nghi Tắc theo thứ tự nên làm tất cả Mạn Trà La Vương mà Nhất Tự Đảnh Luân Vương đã xưng nói.
Bấy giờ, Mạn Thù Thất Lợi Đồng Chân Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thế nào là A Xà Lê?
Thế nào là Quán Đảnh?
Thời, Đức Thế Tôn khen ngợi: Lành thay! Lành thay Diệu Thanh! Lành thay Diệu Âm! Nếu có người muốn thọ nhận Quán Đảnh thì đối với A Xà Lên nên bố thí gấp đôi, nên bố thí hai sợi dây thừng, nên bố thí vật khí bằng vàng, bạc, đồng đã tôi luyện… chứa đầy các hạt giống với thuốc, hương, nước.
Tức A Xà Lê đối trước Mạn Trà La, ở bốn phương xoa tô làm Mạn Trà La, dùng phấn trắng vẽ khoảng ba khuỷu tay, vẽ tòa Sư Tử an trên hoa sen, tòa ngồi của người thọ nhận Quán Đảnh. Xong rồi cầm cái lọng với cây phất, tụng tiếng Cát Khánh tán dương, gia trì một trăm lẻ tám biến vào cái bình trong tay, khiến đệ tự kết Phật Đảnh Ấn an ở trên đầu.
A Xà Lê tự khiến đệ tử rưới rót lên đảnh đầu quán đảnh, thổi loa, đánh trống, làm các âm thanh như vị Quốc Vương thọ nhận Quán Đảnh.
A Xà Lê nên dùng bàn tay phải cầm bàn tay phải của đệ tử, dẫn vào Mạn Trà La, nơi tất cả Phật Bồ Tát phụng hiến đệ tử, khiến đệ tử thỉnh sự ấn khả nơi Phật Bồ Tát.
A Xà Lê vì đệ tử bẩm cáo với Chư Phật, nói lời như vậy: Bạch Đức Thế Tôn! Đệ tử do con đã Quán Đảnh xong. Từ nay trở đi, thiện nam tử này dùng tâm bi mẫn không có hy vọng, thương xót tất cả hữu tình, ứng vẽ tất cả Mạn Trà La của thế gian xuất thế gian, như thuyết nên làm tất cả Mạn Trà La Nghi Quỹ như vậy, nên gia hạnh. Người Quán Đảnh như vậy liền làm A Xà Lê, vào tất cả Đạo Bồ Đề, như vậy tu hành nơi Bồ Tát Hạnh thời được vô lượng quả báo công đức.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba Mươi Tám - Pháp Hội đại Thừa Phương Tiện - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh ưu Bà Tắc Giới - Phẩm Hai Mươi Bảy - Thiền Ba La Mật
Phật Thuyết Kinh Hải Long Vương - Phẩm Một - Phẩm Hạnh - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thánh Mặc Nhiên
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Sáu - Phẩm Vương Tương ưng - Kinh Tần Bệ Sa La Vương Nghinh Phật
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bốn - Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Thi Lợi Hành
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ - Phần Mười Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Mười Sáu - Phẩm Bát Nhã Ba La Mật đa - Phần Sáu