Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Mười Tám
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẬT THUYẾT KINH
NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý
HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẦN MƯỜI TÁM
Lại có hai pháp khó làm:
1. Các pháp bất thiện chưa sinh phòng hộ khiến không sinh.
2. Tất cả pháp thiện chưa sinh, phải làm cho sinh khởi.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Thường tu bốn thứ thần túc là dục cần tâm tuệ.
2. Nên dùng thần túc độ được chúng sinh mà khéo độ họ.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Đạt được thần biến vô gia hạnh.
2. Pháp giới bất động có thể ở trong tất cả Cõi Phật hiển hiện thần biến.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Niềm tin đã đạt được không lay chuyển.
2. Đối với người chưa tin khiến đầy đủ lòng tin.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tự tâm không tạp nhiễm.
2. Khiến chúng sinh tâm nhiễm được thanh tịnh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Phát khởi các tinh tấn căn.
2. An trú niệm căn, không sinh tán loạn.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quyết trạch khéo quán các tinh tấn căn.
2. Không chấp trước tướng không mà khởi niệm.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Đối với định tuệ căn, siêng năng tu các hạnh.
2. Các hạnh đã tu, không sinh mệt mỏi.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tu trí không chỗ hành.
2. Thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, có chốn hành.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Quán các phiền não, lìa phiền não.
2. Phiền não đã sinh, dốc cầu ra khỏi.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tất cả pháp không hòa hợp, vì vốn lìa phiền não.
2. Ba cõi hòa hợp vì đoạn các phiền não của tất cả chúng sinh.
Lại nữa, này Đại Bồ Tát Hải Ý!
Lại có hai pháp ở trong đại thừa có thể thường làm:
1. Tinh tấn tu bảy giác chi.
2. Thâm tâm thuyết giảng pháp giác chi.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Không trú tận trí.
2. Đạt trí nhẫn vô sinh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Khéo hành chánh đạo.
2. Khéo biết phi đạo mà không làm.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Tu hướng đạo trí.
2. An lập chánh đạo.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Tùy thuận pháp duyên sinh.
2. Lìa kiến nhị biên.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Khéo biết nhân nhiễm, duyên nhiễm của tất cả chúng sinh.
2. Khéo biết nhân tịnh, duyên tịnh của tất cả chúng sinh.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Biết rõ việc của ma.
2. Xa lìa việc ma.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Xa lìa các ma.
2. Khiến các ma quy phục.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Pháp đã tận lại không chỗ tận.
2. Pháp vô tận mà không thể tận.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Hiểu rõ xưa nay vô tận.
2. Quán rõ sát na hoại diệt của các pháp.
Lại có hai pháp thường làm:
1. từ mới phát tâm liền quán sát Đại Bồ Đề tràng.
2. Quán sát Bồ Đề tràng nên không thích thừa khác.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Lúc mới phát tâm là liền xuất sinh nhân Bồ Đề tràng.
2. Trí khởi các tâm thiện mà không chấp giữ.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Đoạn các kết sử cho kẻ sinh tử tương tục.
2. Người có thiện căn tương tục khiến họ phát tâm không sinh chán nản.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Hoặc có phương phần hoặc không phương phần, tất cả đều đem hồi hướng về bồ đề vô thượng.
2. Tuy hồi hướng bồ đề mà luôn khởi tâm quán rõ đều như pháp huyễn.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Khiến khap chúng sinh quán bồ đề.
2. Chúng sinh đã quán bồ đề thì khiến họ quán giải thoát.
Lại có hai pháp khó làm:
1. Quán sát bồ đề là bình đẳng nên chúng sinh cũng bình đẳng.
2. Thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, tinh tấn không mỏi mệt.
Lại có hai pháp thường làm:
1. Phát tâm như lý mà quyết trạch tất cả các pháp thiện.
2. Phát tâm đại bi, đem chúng sinh vào đạo Niết Bàn.
Này Hải Ý! Đó là hai pháp ở trong đại thừa mà thường làm.
Lại có hai pháp ở trong đại thừa rất khó làm:
1. Vô sinh mà sinh.
2. Vô khởi mà khởi.
Đó là hai pháp ở trong đại thừa rất khó làm.
Lại nữa, này Hải Ý! Có ba pháp làm tăng trưởng đại thừa.
Những gì là ba?
1. Phát tâm bồ đề tăng tu thiện căn.
2. Được thiện tri thức thâu nhận không hề sinh chán mệt.
3. Kiến lập đại bi mà không thoái chuyển.
Lại có ba pháp làm tăng trưởng đại thừa:
1. Siêng tu thắng hạnh.
2. Quán sát các hành.
3. Ở trong thắng hạnh vì các chúng sinh mà khéo thành thục.
Lại có ba pháp:
1. Dừng chỉ tâm xan tham.
2. Hành thí xả rộng lớn.
3. Hồi hướng bồ đề.
Lại có ba pháp:
1. Tự tích tập tịnh giới.
2. Theo hộ người phá giới.
3. Hồi hướng bồ đề.
Lại có ba pháp:
1. Tâm không chướng ngại.
2. Chúng sinh sân hận khiến họ được thanh tịnh.
3. Hồi hướng bồ đề.
Lại có ba pháp:
1. Tinh tấn không mệt.
2. Có thể hộ trì chúng sinh biếng nhác.
3. Hồi hướng bồ đề.
Lại có ba pháp:
1. Sinh theo thiền định.
2. Không đắm chấp nơi thiền định.
3. Hồi hướng bồ đề.
Lại có ba pháp:
1. Siêng cầu đa văn.
2. Như đa văn mà quán sát.
3. Hồi hướng bồ đề.
Lại có ba pháp:
1. Khởi tâm từ nơi duyên chúng sinh.
2. Khởi tâm từ nơi duyên pháp.
3. Khởi tâm từ nơi không duyên.
Lại có ba pháp:
1. Khởi tâm bi nơi việc làm của chính mình.
2. Khởi tâm bi vì việc làm của người khác.
3. Khởi tâm bi vì lìa nhị biên.
Lại có ba pháp:
1. Siêng cầu trí tự lợi.
2. Siêng cầu trí lợi tha.
3. Siêng phát khởi tinh tấn, tự lợi và lợi tha đều viên mãn.
Lại có ba pháp:
1. Biết trí quá khứ đã qua.
2. Biết trí vị lai chưa đến.
3. Trí hiện tại trú pháp giới.
Lại có ba pháp:
1. Khởi từ phương tiện với chúng sinh chánh định.
2. Khởi từ giải thoát với chúng sinh bất định.
3. Khởi từ đại cứu độ với chúng sinh tà định.
Lại có ba pháp:
1. Đắc lạc thọ nên thân nghiệp thong dong.
2. Khéo hộ người khác nên lời nói dịu dàng.
3. Hành dụng chánh nghiệp nên tâm nghiệp bao dung.
Lại có ba pháp:
1. Tuy tu quán bất tịnh nhưng đối với chúng sinh hành tham không hề sinh lòng chán ghét.
2. Tuy tu quán từ tâm nhưng đối với chúng sinh hành sân không sinh lòng chán xa.
3. Tuy tu quán duyên sinh nhưng đối với chúng sinh hành si không hề sinh lòng chán ghét.
Lại có ba pháp:
1. Vì lợi ích mà tu thắng hạnh.
2. Hoan hỷ thường biết đủ.
3. Luôn luôn trong lặng không hề nhiệt não.
Lại có ba pháp:
1. Giữ gìn chỗ nghe.
2. Đạt văn cú tổng trì.
3. Nhập trí Thánh đoạn dứt việc trước sau.
Lại có ba pháp:
1. Vì thâu giữ bảy Thánh tài nên không hề thiếu thốn.
2. Vì pháp thí vô ngại nên có thể hành đại xả.
3. Tất cả tài lợi vì chia nhiều phần để thí xả nên thường đắc đại phú.
Lại có ba pháp:
1. Vì Thánh đế nên nhập thắng nghĩa đế.
2. Vì chân thật nên không hư dối.
3. Vì chân thường nên không biến đổi.
Lại có ba pháp:
1. Tự biết nay mình phải làm gì.
2. Biết chúng sinh sẽ phải làm gì.
3. Biết thời, hiểu rõ các phần vị của thời và phi thời.
Lại có ba pháp:
1. Uẩn và pháp uẩn đều bình đẳng.
2. Giới và pháp giơi bình đẳng.
3. Quán xứ như hư không.
Lại có ba pháp:
1. Không hủy hoại nhân quả.
2. Khéo trưởng dưỡng các duyên.
3. Cùng nhau hòa hợp thể nhập.
Lại có ba pháp:
1. Không trái nghịch với Phật.
2. Không hủy báng Pháp.
3. Không khinh mạn chúng Tăng mà thường tôn trọng, cung kính, thừa sự.
Lại có ba pháp:
1. Dừng chỉ tâm tham.
2. Xa lìa nơi sân.
3. Hiểu rõ về si.
Lại có ba pháp:
1. Nhập thế tục đế.
2. Nói tướng chân thật.
3. Hiểu rõ thắng nghĩa đế vô trụ.
Lại có ba pháp:
1. Đối với chúng sinh không khởi khinh mạn.
2. Đối với A La Hán thường sinh tôn kính.
3. Không bị sự ràng buộc của phiền não.
Lại có ba pháp:
1. Không nhiễm Dục Giới.
2. Không thích Sắc Giới.
3. Không tham đắm Vô Sắc Giới.
Lại có ba pháp:
1. Đối với suy, chê, trách, khổ, tâm không tự ty.
2. Đối với lợi, khen, đề cao, vui tâm không tự tôn.
3. Không nhiễm tám pháp của cõi đời, giống như núi Tu Di an trú bất động.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Hai - Phẩm Nghiệp Tương ưng - Kinh Già Di Ni
Phật Thuyết Kinh chánh Pháp Hoa - Phẩm Hai - Thiện Quyền - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Trừ Bệnh
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tha Hóa Tự Tại Thiên
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Năm Mươi Ba - Phật Thuyết Kinh Vua Sẻ