Phật Thuyết Kinh Niệm Tụng được Lược Ra Trong Kim Cương đỉnh Du Già - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Kim Cương Trí, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
NIỆM TỤNG ĐƯỢC LƯỢC RA
TRONG KIM CƯƠNG ĐỈNH DU GIÀ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Kim Cương Trí, Đời Đường
PHẦN HAI
Lúc mở cửa thời tụng Mật Ngữ chữ Hồng HŪṂ, trợn mắt giận dữ trừ tất cả chướng ngại. Sau đó dùng tâm tôn trọng trụ chính niệm lễ mười phương Chư Phật với các Bồ Tát Ma Ha Tát, nơi tất cả pháp được tự tại, cảnh giới của thắng tuệ.
Dùng năm vóc cúi đầu sát đất kính lễ xong. Tiếp quỳ hai gối sám tất cả tội với Khuyến Thỉnh, Tuỳ Hỷ, Phát Nguyện, Hồi Hướng công đức … dốc hết sức để nói năng dùng kính lễ.
Tiếp từ chỗ ngồi đứng dậy, lại quỳ gối phải sát đất, liền kết Kim Cương Trì Đại Khế Vajra dhāra mahā mudrā, tụng Mật Ngữ này:
Án, bạt nhật la, vật.
OṂ VAJRA VIḤ.
Khế Pháp ấy là: Dùng Chỉ Vũ tay trái úp che bên dưới, ngửa Quán Vũ tay phải lên trên, hai lưng bàn tay cùng hợp duỗi, đem độ của nhóm định ngón cái phải tuệ ngón út trái đàn ngón út phải trí ngón cái trái cùng trợ nhau cài chéo.
Tụng Mật Ngữ này với kết Đại Khế hay khiến cho Chư Phật vui vẻ, liền được cúng dường, tôn trọng, lễ bái tất cả Như Lai với hàng Kim Cương Tát Đoả Vajrasattva.
Tiếp đối với tất cả Như Lai với các Bồ Tát đem phụng hiến thân của mình.
Trước tiên ở bốn phương, dùng diệu pháp này. Toàn thân sát đất, chắp tay, duỗi bàn tay đều lễ một bái.
Bắt đầu ở phương Đông, tụng Mật Ngữ này lễ bái.
Án, tát bà đát tha yết đa tất cả Như Lai bố nho mở miệng hô cúng dường bà thát tha na gia thừa sự a đát ma nam thân của mình niết lý gia đa phụng hiến dạ di nay con… tát bà đát tha yết đa, bạt chiết la tát đoả, a địa sắt tra thủ hộ tát võng ma hàm nơi con Hồng.
OṂ SARVA TATHĀGATA PŪJA PASVANĀYA ATMANĀṂ NIRYĀTA YĀMI SARVA TATHĀGATA VAJRA SATVA ADHIṢṬA SVĀMAṂ HŪṂ.
Luận ghi rằng: Tiếng Phạn còn lưu lại hai chữ ở đầu và cuối, phương khác theo lệ này. Vì cúng dường thừa sự tất cả Như Lai cho nên nay con phụng hiến thân của mình. Nguyện xin tất cả Như Lai, Kim Cương Tát Đoả gia hộ cho con.
Lại như Kim Cương Hợp Chưởng bên trên, để ở trên trái tim, hướng về phương Nam, dùng vầng trán lễ bái.
Liền tụng Mật Ngữ là:
Án, tát bà đát tha yết đa, bố nhương cúng dường tỳ sái ca gia làm quán đỉnh a đáp ma nam thân của mình niết lý gia đa phụng hiến gia minh nay con tát bà đát tha yết đa, bạt chiết la, a la đát na báu tỳ săn giả, ma hàm nguyện cho con Quán Đỉnh đát la.
OṂ SARVA TATHĀGATA PŪJA ABHIṢAIKĀYA ATMANĀṂ NIRYĀTA YĀMI SARVA TATHĀGATA VAJRA RATNA ABHIṢIṂCA MAṂ TRĀḤ.
Luận ghi rằng: Vì cúng dường tất cả Như Lai Quán Đỉnh cho nên nay con phụng hiến thân của mình. Nguyện xin tất cả Như Lai cho con Kim Cương Bảo Quán Đỉnh.
Lại dùng Kim Cương Hợp Chưởng để ở trên đầu, đưa miệng môi chạm sát đất, hướng về phương Tây lễ bái.
Liền tụng Mật Ngữ:
Án, tát bà đát tha yết đa, bố nhương, bát la mạt đa na gia chuyển a đáp ma nam, niết lý dạ đa, gia minh. Tát bà đát tha yết đa, bạt chiết la đạt ma Pháp bát la phạt đa gia, ma hàm vì con chuyển Kim Chương Pháp hề lý.
OṂ SARVA TATHĀGATA PŪJA PRAVARTANĀYA ATMANĀṂ NIRYĀTA YĀMI SARVA TATHĀGATA VAJRA DHARMA PRAVARTTĀYA MAṂ HRĪḤ.
Luận ghi rằng: Vì triển chuyển cúng dường tất cả Như Lai cho nên phụng hiến thân của mình. Nguyện xin tất cả Như Lai vì con chuyển bánh xe Kim Cương Pháp.
Lại dùng Kim Cương Hợp Chưởng từ đầu trở xuống dưới để ở trên trái tim, dùng đỉnh đầu hướng về phương Bắc lễ bái.
Tụng Mật Ngữ này:
Án, tát bà đát tha yết đa, bố nhương, yết ma ni, a đáp ma nam, niết lý gia đa, dạ nhĩ. Tát bà đát tha yết đa, bạt chiết la yết ma, cú lô vì con làm sự nghiệp ma hàm, a.
OṂ SARVA TATHĀGATA PŪJA KARMAṆI ATMANĀṂ NIRYĀTA YĀMI SARVA TATHĀGATA VAJRA KARMA KURU MAṂ AḤ.
Luận ghi rằng: Vì cúng dường sự nghiệp của tất cả Như Lai cho nên phụng hiến thân của mình. Nguyện xin tất cả Như Lai vì con làm sự nghiệp Kim Cương.
Ở bốn phương như Pháp trên lễ bái xong.
Tiếp tuỳ theo mong muốn làm các việc của nhóm trừ tai hại tức tai: Śāntika, Tăng Ích Puṣṭika, Giáng Phục Abhicāruka, A Tỳ Già La Abhi ghāra: Tán bố, rải bày … sự sai khác đều y theo bản phương mà kết, ngồi.
Nếu muốn làm Trừ Tai Śāntika, hướng mặt về phương Bắc, nên dùng Tát Kết Già Toạ mà ngồi ấy là phụ dựng đầu gối, giao ống chân ngồi dùng mắt từ bi, xưng Mật Ngữ rõ ràng, chẳng mau chẳng chậm, dùng chính niệm Samyak smṛti nhớ trì rồi bắt đầu niệm tụng.
Mắt từ bi như Tu Di Lô Sumeru: Núi Tu Di, Mạn Đà La Maṇḍala bền chắc chẳng dời đổi, mắt ấy chẳng nháy. Đó gọi là từ bi nhãn hay trừ các quỷ thần ác với các bệnh sốt rét.
Liền nói Mật Ngữ:
Án, niết lý trà, niết lý sắt trí, đát lợi tra.
OṂ DṚḌHA DṚṢṬI TRĀṬ.
Nếu làm Tăng Ích Puṣṭika nên hướng mặt về phương Đông, kết Liên Hoa Toạ mà ngồi. Kết Già Phu xong, dùng mắt Kim Cương ngó nhìn, lại dùng Kim Cương Ngữ Ngôn Vajra vācā rồi bắt đầu niệm tụng Jāpa. Kim Cương nhìn ngó là dùng mắt có tâm yêu trọng, vui thích. Dùng ánh mắt này ngắm nhìn đều mong tuỳ thuận.
Liền nói Mật Ngữ:
Án, bạt chiết la niết lý sắt để, mạt tra.
OṂ VAJRA DṚṢṬI MAṬ.
Nếu muốn Giáng Phục Abhicāruka nên hướng mặt về phương Tây, kết Hiền Toạ mà ngồi kèm ống chân ngồi xổm, mông không chạm đất. Liền dùng Minh Mục để giáng phục Minh Mục là con ngươi của mắt luôn chuyển động. Dùng mắt này nhìn, đều được giáng phục.
Liền nói Mật Ngữ:
Án, niết lý sắt trí gia, câu xí nhương.
OṂ DṚṢṬIYA KUKṢI JA.
Nếu làm A Tỳ Già La Abhi ghāra, nên hướng mặt về phương Nam, dùng Bát Lạt Đa Lý Trà Pra dṛḍha đứng thẳng bàn chân phải đứng thẳng, xếp duỗi bàn chân trái như thế chữ Đinh 丁, cong mình cúi xuống.
Hoặc dùng Ốt Câu Tra Toạ Utkuṭaka: Đem bàn chân phải đạp xéo trên bàn chân trái, ngồi xổm, mông không chạm đất. Làm mắt giận dữ, nhướng mày nhìn nghiêng. Dùng mắt nhó nhìn này thì các quỷ thần ác đều bị tồi diệt. Dùng ý Sân, mắt giận mà tụng.
Liền nói Mật Ngữ là:
Án, cú lô đà, niết lý sắt để, hề, hồng, phát.
OṂ KRODHA DṚṢṬI HE HŪṂ PHAṬ.
Phàm dùng ngữ âm giận dữ tụng Mật Ngữ. Ấy là như bóng rợp của mây, xưng chữ Hồng HŪṂ. Dùng lời giận dữ sân ngữ tụng Mật Ngữ Giáng Phục tức thêm hai chữ Hồng Phát HŪṂ PHAṬ đều nên dùng âm tiếng rõ ràng. Người tụng Mật Ngữ như chữ Phát PHAṬ dùng tướng giận dữ làm hình sắc, tụng uy nộ rõ ràng.
Nếu hoặc kết Như Lai Toạ ngồi Kiết Già, hoặc kết Bồ Tát Toạ ngồi Bán Già vì tất cả chúng sinh tịnh trị cho nên muốn cầu thanh tịnh, trụ ở chính niệm, dùng tâm giữ niệm mà tụng Mật Ngữ này:
Án, tát võng bà phộc Tự Tính thuật đà, tát bà đạt ma tất cả Pháp tát võng bà phộc, thuật độ hàm Ta cũng thanh tịnh.
OṂ SVABHĀVA ŚUDDHA SARVA DHARMA SVABHĀVA ŚUDDHA UHĀṂ.
Luận ghi rằng: Tiếng Phạn còn lưu lại chữ ở đầu. Dùng tự tính thanh tịnh của tất cả pháp, ta cũng có tự tính thanh tịnh.
Tụng Mật Ngữ này xong. Lại dùng tâm niệm là: Các chúng sinh từ vô thuỷ trôi theo sóng sinh tử. Do ghanh ghét, tam lam, nhơ uế, đen tối che kín mắt không mở ra được. Vì trừ diệt ghanh ghét, tham lam, chướng ngại cho nên khiến thành tựu các Tất Địa thuộc thế gian và xuất thế gian.
Tưởng nghĩ như thế xong, liền tụng Mật Ngữ là:
Án, tát bà đát tha yết đa, hướng tất đà, tát bà tát đoả nam, tát bà tất đà gia tất cả thành tựu tam bả hiển đàm, đát tha yết đa át địa để sắt tra đảm.
OṂ SARVA TATHĀGATA ŚAṂSITĀḤ SARVA SATVĀNĀṂ SARVA SIDDHAYAḤ, SAṂPADYATNĀ, TATHĀGATA ŚCA ADHITIṢṬANĀṂ.
Luận ghi rằng: Tiếng Phạn còn lưu lại chữ đầu tiên. Tất cả Như Lai cùng chung xưng tán, vì tất cả chúng sinh. Tất cả Tất Địa nguyện đều thành tựu.
Phàm nơi chướng ngại đều từ tâm khởi. Do xưa kia quen thói gom chứa sức ganh ghét, tham lam. Vì trừ chướng ngại cho nên cần phải nhớ niệm tâm bồ đề.
Người tu Du Già, phút chốc tác suy tư đó xong cần phải quán sát: Thế gian do bạo ác, sợ hãi, vọng tưởng nhiếp lấy tham ái, hy vọng, mê loạn tâm hành, bị lửa giận dữ ấy thiêu đốt, thân thường du hành trong bóng tối si mê, chìm đắm trong bùn ái nhiễm của tâm ấy. Do vì hư vọng, kiêu mạn, say rượu li bì nên chỉ trụ trong nhà sinh tử tà kiến, chẳng gặp bậc thiện tri thức, vị Cam Lộ tối thượng.
Do tự tạo làm mọi loại công xảo vọng tưởng nên đã hình thành vô lượng sai khác. Thấy các chúng sinh bị vô minh dơ bẩn nặng nề cấu trọng che phủ. Thấy lỗi lầm như thế không có nơi nương tựa cứu giúp cần phải xót thương cho họ. Đã sinh tâm thương xót xong nên phải cứu độ cho vô lượng chúng sinh.
Vậy thì người Trì Tụng cần phải ở đời này tác A Bà Pha Na Già Tam Ma Địa Āsphānaka samādhi: Bất Khả Động Tam Ma Địa.
Tiếp nói Pháp nhập vào Tam Ma Địa Samādhi. Nếu người muốn Nhập Định, chẳng nên lay động thân với các chi thể, răng môi đều hợp, hai mắt tự hợp, ở trước Tượng Phật, trước tiên nên suy tư.
Nếu muốn vào Định, tác suy tư là: Chư Phật tràn khắp hư không giống như hạt mè bóng loáng tràn đầy khắp Đại Địa, ở trong thân tâm ấy nghiêm sức cũng vậy.
Tác niệm đó xong, liền kết Tam Ma Gia Đẳng Khế. Liền ở trong lưỡi, trái tim, thân, bàn tay của mình… tưởng chữ Hồng HŪṂ. Liền tưởng chữ ấy biến làm Kim Cương. Lại ở trong mắt phải, tưởng chữ Ma MA, ở trong mắt trái tưởng chự Tra Ṭ. Lại tưởng chữ Ma biến làm mặt trăng, chữ Tra biến làm Mặt Trời, tức dùng Kim Cương tạo thành. Mắt nên chiêm ngưỡng tất cả Phật.
Do Pháp này ngắm nhìn được tất cả nơi xưng tán của Chư Phật.
Tụng Mật Ngữ này:
Án, bạt chiết la, mạt tra.
OṂ VAJRA MAṬ.
Liền dùng con mắt Kim Cương đã nói như trên ngắm nhìn kèm tụng Mật Ngữ này xong liền được tương ứng với sự Giáng Phục, đều thường tùy thuận. Nếu có chúng sinh bạo ác, tất cả chướng ngại, Tỳ Na Dạ Ca Vināyaka … do Pháp Kim Cương Vajra dharma ngắm nhìn cho nên các điều ấy sẽ bị tiêu diệt.
Tiếp kết Tam Ma Gia Khế Pháp. Khiến Chỉ Quán Vũ hai bàn tay bền chắc xong đem các Độ các ngón tay cùng giao nhau phần đầu. Đây gọi là Kim Cương Hợp Chưởng Vajrāñjali để ở đỉnh đầu. Phần gốc của hai bàn tay lại để ở trái tim, cổ họng dùng gia trì thân của mình. Tụng Mật Ngữ xong, theo thứ tự đặt để.
Mật Ngữ là:
Án, bạt chiết la, nhược lý.
OṂ VAJRA JĀLI.
Lại nữa, tận phần gốc các Độ của Kim Cương Hợp Chưởng Khế ấy gia ở lưng, kết rất chặt. Hiệu là Kim Cương Phộc Khế Vajra bhandha mudrā.
Lại để Khế ở trên trái tim, tụng Mật Ngữ này:
Bạt chiết la, bàn đà cột buộc.
VAJRA BANDHA.
Tiếp lại kết Kim Cương Phộc Khế xong, dựng thẳng hai độ nhẫn nguyện hai ngón giữa làm cây kim, để ở trên trái tim.
Liền tụng Mật Ngữ:
Tam ma gia, tát đoả.
SAMAYAS TVAṂ.
Đây là Mật Ngữ, Khế của Ngộ Nhất Thiết Chư Phật với các hàng đệ tử.
Tiếp đem cây kim của Khế ấy co vào trong lòng bàn tay, đem độ trí định hai ngón cái, Đàn Tuệ hai ngón út dựng như cây kim.
Đây gọi là Cực Hỷ Tam Ma Gia Khế Pramodya samaya mudrā liền tụng Mật Ngữ:
Tam ma gia, hộ.
SAMAYA HOḤ.
Lại kết Kim Cương Phộc xong để ở trên trái tim. Tưởng trên trái tim của mình có chữ Đát Lạt TRĀ, chữ Tra Ṭ làm cánh cửa của trái tim. Lúc kéo mở Kim Cương Phộc Khế thời tưởng như mở cửa trí, tức ba lần tụng Mật Ngữ thì ba lần kéo mở.
Mật Ngữ là:
Án, bạt chiết la, bạn đà nghĩa là mở, đát lạt, tra.
OṂ VAJRA ABANDHA TRĀṬ.
Đã ở trái tim mở cửa trí, liền tưởng bên trong cửa có cái Điện lớn, lại tưởng trước mặt có chữ A chiếu khắp ánh sáng. Vì sinh Tâm Bồ Đề Bodhi citta đủ Đại Trí Mahā jñāna cho nên khiến vào trong cái Điện của trái tim mình, liền dùng ý.
Chính Định kết Kim Cương Triệu Nhập Khế Vajrāviśa mudrā với kết Tam Ma Gia Khế Samaya mudrā.
Pháp kết Triệu Nhập Khế. Kết Kim Cương Phộc Khế xong, đem hai Độ Trí Định hai ngón cái co vào trong lòng bàn tay. Đây gọi là Kim Cương Triệu Nhập Khế.
Lúc kết Khế thời liền tụng Mật Ngữ: Án, bạt chiết la, phệ xa triệu vào a.
OṂ VAJRĀVIŚA AḤ.
Do tu hành này, bậc Du Già liền được sinh Kim Cương Triệu Nhập Trí.
Vajrāviśa jñāna. Trí tuệ này hay hiểu thấu tất cả việc tạo làm của quá khứ Atikrānta, vị lai Anāgata, hiện tại Pratyutpanna … thảy đều ngộ giải một trăm ngàn lẻ tám Khế Kinh Sutra chưa từng nghe, nghĩa của văn tự ấy đều được hiện trước mặt.
Tiếp dựa theo bên trên, lại kết Kim Cương Phộc Khế xong với co hai độ trí định hai ngón cái vào trong lòng bàn tay, đem độ tiến lực hai ngón trỏ để trên lưng độ trí định hai ngón cái. Đây gọi là Kim Cương Quyền Tam Ma Gia Khế Vajramuṣṭi samaya mudrā.
Lúc kết Khế này thời tụng Mật Ngữ này:
Án, bạt chiết la, mộ sắt trí, tông.
OṂ VAJRA MUṢṬI VAṂ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba