Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Bốn Mươi Chín - Phẩm Nhân Duyên Xá Lợi Phất

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM BỐN MƯƠI CHÍN

PHẨM NHÂN DUYÊN XÁ LỢI PHẤT

VÀ MỤC KIỀN LIÊN  

Vào một thuở nọ, vùng Ma Ha Đà cách thành Vương Xá chẳng xa, có một thôn nhỏ tên là Na La Đà. Trong thôn này có một đại Bà La Môn cự phú tên là Đàn Nương Da Na nhà Tùy dịch là Cát Chí.

Lại có thuyết khác nói: Bà La Môn này tên là Đàn Na Đạt Đa nhà Tùy dịch là Tài Dự. Bà La Môn này là một đại cự phú, có nhiều của cải, nhà cửa giống như cung điện Tỳ Sa Môn ở phương Bắc. Bà La Môn này có tám người con trai.

Người con thứ nhất tên là Ưu Bà Đê Sa, người con thứ hai tên là Đại Tất, người con thứ ba tên là Thuần Đà, người con thứ tư tên là Khương Xoa Hiệt Lợi Bạt Đa, người con thứ năm tên là Xiển Đà, người con thứ sáu tên là Diêm Phù Ha Ca, người con thứ bảy tên là Kiều Trần Ni, người con thứ tám tên là Tô Đạt Ly Xá Na, đó là tên tám người con trai.

Bà La Môn lại có một người con gái tên là Tô Thi Di Ca. Nàng này xuất gia tu học trong pháp của ngoại đạo Ba Ly Bà Xa.

Các vị Sư Ma Ha Tăng Kỳ lại nói:

Bà La Môn này có bảy người con trai: Người con thứ nhất tên là Đạt Ma, người con thứ hai tên là Tô Đạt Ma, người con thứ ba tên là Ưu Ba Đạt Ma, người con thứ tư tên là Đê Sa, người con thứ năm tên là Ưu Ba Đê Sa, người con thứ sáu tên là Hiệt Ly Đạt Na, người con thứ bảy tên là Ưu Ba Ba Ly Bạt Đa.

Đây là tên của bảy người con. Trong số các anh em, có Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa là người giỏi nhất vì Đồng Tử khéo hay tụng tập và dạy lại các người khác.

Đối với bốn bộ Vệ Đà, không nghĩa lý nào là không thông hiểu, tụng tập thành tựu, khéo hay giải thích. Ngoài ra, các luận khác như Ni Kiền Đà, Kê Thơ Bà, cho đến các danh tự, người này đều giải thích rõ ràng, biết việc quá khứ, có tài phân biệt, đối với ngũ minh am tường không chướng ngại, Thọ ký biệt luận ghi nhớ trong tâm, có tài thành tựu sáu mươi bôn pháp một cách đầy đủ, hiểu rõ các tướng bậc Đại trượng phu.

Đồng Tử bản tánh nhu hòa, hiền từ, chất trực, thường có lòng từ bi, ngao ngán thế sự, luôn hối hận tội lỗi đã làm. Vì trong quá khứ Đồng Tử đã gặp được Chư Phật, trồng nhiều căn lành, thành tựu các pháp, khéo hay huân tập, thường thích siêng năng, đối việc ăn uổng thì biết đủ, xa lìa phiền não, hướng đến Niết Bàn.

Thuận lý không ngăn ngại, không thích các cõi, thành tựu các hạnh, phiền não kết phược tiêu tan, đến được địa vị thành thục, chỉ còn một đời, thông minh tài giỏi, suy nghĩ chín chắn, hiểu rõ mọi việc. Đối với công việc kinh doanh, cha mẹ đều hỏi Đồng Tử rồi mới thực hiện.

Bấy giờ cách thành Vương Xá chẳng bao xa cũng có một làng tên là Câu Ly Ca, trong thôn này có một Cư Sĩ dòng đại Bà La Môn.

Trong thôn, Cư Sĩ là hàng cự phú, giàu có của cải, nhà cửa giống như cung điện Thiên Vương Tỳ Sa Môn không khác. Bà La Môn này sinh một con trai tên Câu Ly Đa, dung nhan tuấn tú, mọi người đều thích nhìn ngắm, thông suốt tất cả Kinh Luận, lại có thể dạy lại người khác, hiểu rõ các tướng bậc đại trượng phu.

Thuở ấy Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa kết giao thân hữu với Đồng Tử Câu Ly Đa, hai người yêu mến lẫn nhau, luôn luôn hoan hỷ, nhan sắc tươi vui hòa nhã. Nếu phải xa nhau trong giây lát thì hết sức nhớ nhung, vì hai người này trong ngàn đời về trước đã thân ái với nhau.

Có kệ:

Nhân quả đời trước quyện với nhau

Hai người với nhau tâm thân mật

Do vì tâm ái là như vậy.

Giống như hoa sen mọc trong nước.

Ưu Ba Đê Sa, Câu Ly Đa

Hai người với nhau rất ái kính

Giả sử xa nhau trong giây lát

Trong lòng áo não tự buồn phiền.

Thuở ấy cách thành Vương Xá chẳng bao xa có các ngọn núi: Ngọn núi tên Kỳ Ly Cừ Ha, nơi núi này thường tổ chức đại hội.

Hội này được mang tên Kỳ Ly Cừ Ha.

Lại có núi tên Ly Sư Kỳ Ly, cũng thường tổ chức đại hội và hội này cũng được mang tên núi Ly Sư Kỳ Ly.

Lại có một núi khác tên là Bội Ha La.

Ngoài ra, còn có các núi khác như Bàn Đồ và Tỳ Phú La. Các núi này cũng vậy. Mỗi núi đều có tổ chức đại hội và đại hội cũng mang tên núi là Bàn Đồ và Tỳ Phú La.

Núi Kỳ Ly Cừ Ha đến ngày lễ thì tổ chức đại hội. Vào những ngày hội, quần chúng tụ họp rất đông, có ngày đến vô lượng ngàn người.

Có ngày đến vô lượng trăm ngàn người. Có ngày đến vô lượng ức ngàn người. Họ từ tám phương kéo về xem đại hội dưới nhiều phương tiện voi, ngựa, xe, bộ.

Lúc ấy tất cả dân chúng trong thành đều ra khỏi thành để dự hội. Ngoài thành Vương Xá có hai thôn Na La Đa và Câu Ly Ca, cách nhau khoảng nửa do tuần.

Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa suy nghĩ: Hôm nay ta có thể đến núi Kỳ Ly Cừ Ha để xem hội. Khi đến đó, nhất định ta sẽ được một việc là nhàm chán thế gian. Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa đi xe tứ tượng, từ thôn Na La Đa đi đến đại hội Kỳ Ly Cừ Ha để quan sát.

Khi ấy Đồng Tử Câu Ly Đa cũng nghĩ: Hôm nay ta nên đi đến đại hội Kỳ Ly Cừ Ha sinh tâm nhàm chán thế gian. Ngồi trên thớt voi đi chậm rãi, phía trước có người ca, có người múa để giúp vui, Đồng Tử khởi hành từ thôn Câu Ly Ca đi đến đại hội để quan sát.

Bấy giờ hai Đồng Tử hình dáng tuấn tú, làm đẹp lòng người, cho đến tất cả kỹ nghệ, không nghề nào là không thông hiểu, đáng bậc đứng đầu trong thiên hạ. Lúc ấy trong hội có tôn trí những tòa cao, hai người đến nơi đều lên tòa này.

Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa thấy đại chúng trình diễn đủ trò vui. Nào trổi các loại nhạc, hoặc ca, hoặc múa, vui chơi thỏa thích.

Đồng Tử thấy vậy suy nghĩ: Việc này thật là hy hữu, chưa từng thấy như vậy. Ngày nay dân chúng có thể ở trong sự đau khổ, ở trong cảnh nhơ nhớp, già yếu, uế trược mà tham đắm, phóng dật.

Bệnh khổ nhơ nhớp, không an ổn như vậy, già chết, uế trược, mạng sống chẳng bao lâu, thế mà dân chúng cho là an vui nên buông lung phóng dật, ca múa xướng hát, tấu đủ âm nhạc, thọ hưởng vui chơi.

Rồi Ưu Ba Đê Sa tiếp tục quan sát chúng hội, lại nghĩ: Qua một trăm năm sau, tất cả những người trong hội này không còn một ai. Khi nghĩ như vậy, liền sinh hối hận, không thấy thích thú, chàng liền rời tòa cao, từ từ đứng dậy, lần lần ra khỏi đại hội, đi đến rừng vắng, ngồi dưới một gốc cây, buồn rầu áo não, đóng chặt các căn, tư duy thiền định. Bấy giờ trong đại hội có một diễn viên giúp vui cho khán giả.

Đồng Tử Câu Ly Đa thấy đại chúng cười ha ha lớn tiếng, liền thầm nghĩ: Tất cả quần chúng này sau một trăm năm, liệu bộ xương còn có liên kết với nhau hay không?!

Nghĩ như vậy rồi, chàng hết sức buồn rầu khổ sở, không thích vui chơi, liền rời khỏi chỗ ngồi, đi tìm Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa, với ý nghĩ: Giờ này không biết Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa ở đâu?

Đưa mắt nhìn chung quanh, chàng xa xa trông thấy Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa đang ngồi yên tư duy tại một rừng cây, tâm chẳng vui, đóng chặt các căn, tư duy thiền định.

Đồng Tử Câu Ly Đa thây vậy, liền tiến đến hỏi: Anh vì sao ngồi một mình ở nơi đây tư duy, trong tâm chẳng vui như vậy?

Hay bị những điều phiền não khổ sở, tai biến bất thường gì chăng?

Câu Ly Đa liền nói kệ:

Đàn, trống, các âm nhạc

Tiếng nam nữ ca ngâm

Nên nghe tiếng du dương

Cớ sao tâm lai buồn?

Lúc này nên hoan hỷ

Vì sao lại âu sầu?

Chính đây lức hưởng lạc

Chẳng nên buồn kêu khóc.

Chỉ nghe âm thanh này

Như giọng hát Thiên Nữ

Hội này như hội Trời

Cớ gì tâm chẳng vui?

Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa nói với Đồng Tử Câu Ly Đa: Này thân hữu, thật lạ thay!

Anh có thấy những việc trong hội này chăng?

Tất cả quần chúng trong đại hội đang nghe những tiếng âm nhạc, ca vịnh thật vui đùa.

Một trăm năm sau, không còn một ai.

Rồi Ưu Ba Đê Sa nói kệ:

Mọi người tham cảnh ái

Cảnh ấy đâu giải thoát

Muôn vật không lâu bền

Hạng ngu cớ gì vui?

Những hạng chúng sinh này

Tâm tham đắm ngũ dục

Chẳng lâu đọa địa ngục

Qua đời thành tro bụi.

Tâm ta ngày nay không chút vui

Lo sợ âu sầu càng tăng trưởng

Âm nhạc các người tuy có vui

Ý ta chỉ thấy vui với pháp.

Trời, người, Tu La thần nhạc Trời

Trong tâm thường hưởng cảnh hoan lạc

Chẳng chịu nhàm chán rồi qua đời

Do vậy ta nay tu pháp hạnh.

Đồng Tử Câu Ly Đa lại nói với Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa:

Này anh Ưu Ba Đê Sa, ý tôi cũng vậy.

Chàng liền nói kệ:

Khổ sướng cũng giống nhau

Buồn vui nào có khác

Điều bậc trí ngợi khen

Tôi cũng đồng như bạn.

Điều bạn nghĩ tốt đẹp

Ý tôi cũng làm theo

Thà chết đồng với bạn

Chẳng muốn sống xa nhau.

Đồng Tử Câu Ly Đa hỏi Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa: Ngày nay chúng ta nên làm gì?

Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa trả lời Đồng Tử Câu Ly Đa: Này bạn thân, nếu vậy thì ngày nay chúng ta cần phải xuất gia, cầu pháp cam lộ thù thắng.

Câu Ly Đa bảo Ưu Ba Đê Sa: Như ý muốn của bạn, tôi cũng vậy. Này Ưu Ba Đê Sa, chúng ta đã ra khỏi nhà, hãy từ đây đi cầu xuất gia luôn.

Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa nói với Đồng Tử Câu Ly Đa: Bạn nên biết, chúng ta ngày nay mọi người đều biết, nếu cha mẹ không cho phép thì vị Đạo Sư nào độ cho chúng ta?

Vị ấy sẽ sợ cha mẹ chúng ta làm trở ngại. Chi bằng ngày nay chúng ta nên về xin phép cha mẹ. Hai Đồng Tử giã từ đại hội trở về nhà.

Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa về đến nhà, thưa với cha mẹ: Lành thay! Thưa cha mẹ, ý con ngày nay muốn xuất gia. Cúi xin cha mẹ cho phép.

Khi ấy cha mẹ Đồng Tử bàn riêng với nhau: Ngày nay trong nhà chúng ta, ai là người sẽ thừa kế làm chủ tất cả tài sản?

Chúng ta rất thương yêu Đồng Tử này, mà nó lại muốn bỏ ta xuất gia cầu đạo.

Chúng ta lòng nào để nó biệt ly?

Cha mẹ bàn riêng như vậy rồi, bèn bảo Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa: Này Đồng Tử, cha mẹ ngày nay tuy có nhiều con, nhưng tình cảm phần nhiều dồn về con, nên vắng bóng con trong giây lát đủ làm cha mẹ hết sức ưu sầu, thường muốn gần bên con, không muốn xa lìa.

Hơn nữa, con từ khi sinh ra cho đến ngày nay chưa từng chịu khó nhọc. Theo ý của cha mẹ, khi cha mẹ qua đời còn không muốn rời con, huống chi là ngày nay cha mẹ còn sống mà để con xuất gia, hoàn toàn không có việc như vậy.

Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa cứ như thế thưa đến lần thứ hai, rồi đến lần thứ ba mà cha mẹ cũng không cho phép. Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa đã ba lần xin phép như vậy mà cha mẹ vẫn không cho. Vì không được cha mẹ cho phép, nên vào một hôm nọ Đồng Tử không chịu ăn uống, cho đến bảy ngày.

Lúc ấy tất cả quyến thuộc cùng những người thân quen tập họp trước mặt cha mẹ Đồng Tử, thưa với ông bà: Lành thay! Thưa Thánh Giả, ông bà nên để Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa xuất gia. Nếu Đồng Tử được phép xả tục xuất gia, sẽ vui sống trên con đường cầu đạo. Như vậy thân mạng vẫn còn, lo gì ông bà không gặp mặt. Còn nếu Đồng Tử không vui với đạo thì người sẽ tự trở về nhà.

Chẳng lẽ để Đồng Tử phải chịu bỏ mạng trước hay sao?

Bấy giờ cha mẹ Đồng Tử liền nói: Nếu như vậy, chúng ta đồng ý.

Nói về Đồng Tử Câu Ly Đa, lúc ấy cũng về nhà, đến thưa cha mẹ: Lành thay! Thưa cha mẹ, ngày nay con muốn xả tục xuất gia. Cúi mong cha mẹ cho phép. Cha mẹ Câu Ly Đa chỉ có một người con, lại càng thêm quý trọng, không muốn tạm rời.

Trong giây lát không thấy mặt con, tâm rất ưu sầu, nhưng vì thuở trước cha mẹ Câu Ly Đa đối với người trong nhà đã có lời thề quan trọng: Này các ngươi, mọi người lớn nhỏ trong nhà đối với những gì Đồng Tử Câu Ly Đa làm không được cản trở. Hễ lời gì Đồng Tử nói ra đều phải làm theo.

Bấy giờ cha mẹ và người trong nhà nhớ rõ điều này, nên nói với Đồng Tử Câu Ly Đa: Tùy ý muốn của Đồng Tử, hãy làm theo ý mình. Thuở ấy, trong đại thành Vương Xá có một ngoại đạo tên là Ba ly xà bà San Xà Da, cùng năm trăm quyến thuộc ở trong thành này.

Khi ấy Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa cùng Đồng Tử Câu Ly Đa chưa có chỗ nương tựa, không biết đi đâu, nên lúc ấy hai Đồng Tử đến chỗ ngoại đạo San Xà Da nhà Tùy dịch là Bỉ Thắng cạo bỏ râu tóc xuất gia học đạo.

Khi ấy hai Đồng Tử căn cơ lanh lợi, thiểu dục tri túc, trí tuệ sâu xa nên con của San Xà Da là Tỳ La Sắt Trí Tỳ La Sắt Trí nhà Tùy dịch là Biệt Dị Trượng đối với hai người này dạy đạo thuật của mình như các kỹ thuật, phương thuốc, thảo dược, thiền định Phi Tưởng.

Khi ấy hai Đồng Tử được chỉ dạy rồi, ở trong bảy ngày đêm, tất cả đều thông đạt. Sau khi hai Đồng Tử thông đạt rồi, làm vị Giáo Thọ Sư trong ngoại đạo Ba Ly Bà Xà Ca và năm trăm quyến thuộc. Khi ấy hai Đồng Tử thay nhau làm chủ thống lãnh đại chúng.

Tuy được như vậy, trong tâm vẫn chưa an tịnh nên Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa bảo Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca nhà Tùy dịch là Viễn Ly: Lành thay! Này Câu Ly Đa, giáo pháp của San Xà Da Ba Ly Bà Xà Ca không diệt tận sự đau khổ. Này Câu Ly Đa, anh nên cùng tôi đi cầu bậc Thiện sư khác.

Khi ấy Đồng Tử Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca nói với Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca: Như lời bạn nói, tôi thuận theo lời. Tuy nhiên, vị thầy này chúng ta cũng không nên từ bỏ hẳn để tìm thầy khác.

Khi ấy hai người đồng tâm lập thệ: Hai chúng ta, ai gặp được vị thầy thù thắng vì chúng ta dạy đạo cam lộ thù thắng, thì phải bảo với nhau. Thuở ấy, giáo hóa Vua Tần Bà Sa La và mười hai na do tha người xong, Đức Thế Tôn ngự trong Vườn Trúc Ca Lan Đà, tại thành Vương Xá cùng chúng đại Tỳ Kheo một ngàn người, đều xuống tóc xả tục xuất gia.

Lúc ấy trong đại chúng có một Tỳ Kheo tên Ưu Ba Tư Na, oai nghi trang nghiêm bậc nhất. Vào buổi sáng sớm, vị ấy đắp y mang bát vào thành Vương Xá, ở trong thành theo thứ lớp khất thực. Đây là thuyết của sư Ma Ha Tăng Kỳ.

Ngoài ra, các vị khác nói thế này: Khi ấy Tỳ Kheo A Thấp Ba Du Kỳ Đa nhà Tùy dịch là Mã Thị, vào buổi mai, khi mặt Trời còn ở phương Đông, đắp y mang bình bát vào thành khất thực.

Trong thành, Tỳ Kheo mặc y nội và đắp y Tăng già lê, mang bình bát, oai nghi tề chỉnh, thu nhiếp các căn, định tâm nhìn bên ngoài, tư duy các pháp, chánh niệm, đi thẳng, tuần tự khất thực.

Bấy giờ tất cả nhân dân trong đại thành Vương Xá thấy vậy đều cùng nhau bàn luận nói kệ:

Giữ vững các giác quan

Đi đứng thường tịch định

Mỉm cười giọng hòa nhã

Đây chắc đệ tử Phật.

Bấy giờ Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa thấy Trưởng Lão Tỳ Kheo A Thấp Ba Du Kỳ Đa ở trong thành, mặc y nghiêm chỉnh, khéo thu thúc các giác quan, định tâm nhìn bên ngoài, tư duy các pháp, chánh niệm, ung dung tiến bước, theo thứ lớp khất thực. Vì vậy dân chúng mới nói kệ như trên.

Đồng Tử Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca liền nghĩ: Trong thế gian có các vị A La Hán, tất cả các Thánh Nhân và bậc đang hướng đạo, Đại Đức này chắc là một trong số đó. Ta nên đến gặp vị ấy để thưa hỏi những điều nghi.

Bấy giờ Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca lại nghĩ thế này: Nếu đến thưa hỏi thì không đúng lúc.

Tại sao vậy?

Vì Tỳ Kheo đang khất thực.

Phàm người cầu pháp phải dẹp bỏ ngã mạn, nên ta phải theo dõi Tỳ Kheo đi về chỗ nào?

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca nghĩ như vậy rồi, liền đi theo sau xem Tỳ Kheo đi về đâu. Khi Tỳ Kheo A Thấp Ba Du Kỳ Đa khất thực xong, mang thức ăn ra khỏi đại thành Vương Xá.

Khi ấy Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca liền đi đến chỗ Đại Đức Tỳ Kheo A Thấp Ba Du Kỳ Đa, cùng Trưởng Lão thăm hỏi, chào hỏi lẫn nhau, rồi lui đứng về một bên.

Khi ấy Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca bạch Đại Đức Tỳ Kheo A Thấp Ba Du Kỳ Đa: Thưa nhân giả, Ngài chính là bậc Đạo Sư hay là đệ tử Thanh Văn của bậc nào khác?

Trưởng Lão A Thấp Ba Du Kỳ Đa nghe hỏi như vậy, nói với Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca: Có Đại Sư khác, tôi chỉ là một trong số các đệ tử Thanh Văn của Ngài.

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca lại hỏi Đại Đức A Thấp Ba Du Kỳ Đa: Bạch Đại Đức, thầy của nhân giả là ai?

Nương vào ai xuất gia?

Vui pháp hạnh gì?

Nói về Đức Thế Tôn khi mới Thành Đạo, mọi người đều gọi Phật là Đại Sa Môn tức là dịch từ Ma Ha Sa Môn mà ra.

Đại Đức Tỳ Kheo A Thấp Ba Du Kỳ Đa nói với Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca: Lành thay! Thưa nhân giả, có Đại Sa Môn họ Thích, thuộc dòng Thích Ca. Tôi xuất gia nơi Ngài, Ngài là thầy của tôi. Tôi đã theo Ngài xuất gia, vui sống trong giáo pháp của Ngài.

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca lại bạch Đại Đức A Thấp Ba Du Kỳ Đa: Lành thay! Thưa nhân giả, Đại Sư của nhân giả tôn nhan có đoan chánh hơn nhân giả hay không?

Tài đức có hơn nhân giả không?

Bấy giờ Trưởng Lão A Thấp Ba Du Kỳ Đa nói kệ:

Hạt cải so Tu Di

Dấu chân trâu so biển

Muỗi mòng sánh đại bàng

Tôi so Phật cũng vậy.

Giả sử Thanh Văn đã giải thoát

Các quả thành tựu vẫn đệ tử

Không được dự vào hàng Chư Phật

Uy đức khác với Phật Thế Tôn.

Thầy của tôi đối với các pháp trong ba đời đều biết rõ ràng, chứng được trí vô ngại. Này nhân giả, thầy của tôi đối với tất cả pháp, mọi việc đều được thành tựu trí vô ngại.

Bấy giờ Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca thưa Đại Đức A Thấp Ba Du Kỳ Đa:

Thầy của Ngài nói những pháp gì?

Luận những việc gì?

Rồi chàng liền nói kệ:

Tôi thấy oai nghi Ngài

Thân tâm rất tịch định

Do vậy, tôi phân vân

Xin Ngài nói việc này

Nay Ngài chớ từ nan

Tâm tôi luôn ngờ vực:

Thầy Ngài dạy pháp gì?

Xin Ngài nói rõ cho.

Thấy Bà La Môn bày

Cung kính hỏi như vậy.

Đáp lại: Thầy của ta

Đại tộc dòng Cam Giá

Tối thắng nhất thiết trí

Thầy ta Vô Thượng Sư.

Bấy giờ Đại Đức A Thấp Ba Du Kỳ Đa nói với Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca: Thưa nhân giả, tôi còn nhỏ tuổi, Phật pháp học hỏi chẳng được bao nhiêu, hiểu biết cạn cợt, đâu có thể trình bày rộng rãi được, nên tôi chỉ nói tóm lược cho nhân giả mà thôi.

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca thưa A Thấp Ba Du Kỳ Đa: Lành thay! Thưa Đại Đức, xin Ngài nói chỗ cốt yếu, tôi không thích nghe nói dài.

Rồi chàng nói kệ:

Tôi chỉ nhận chân lý

Không thích mặt từ chương

Người trí quý nghĩa thật

Theo nghĩa tôi tu hành.

Bấy giờ Đại Đức A Thấp Ba Du Kỳ Đa nói với Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca: Này nhân giả, Đại Sư của tôi dạy pháp nhân duyên, giảng con đường giải thoát.

Thầy tôi nói kệ thế này: Đây là lời nói của các thầy trong bộ phái Ma Ha Tăng Kỳ.

Còn các thầy thuộc bộ Ca Diếp nói cách khác: Nghĩa ấy thế nào?

Đại Đức A Thấp Ba Du Kỳ Đa nói:

Này nhân giả, Thầy tôi nói câu pháp thế này:

Các pháp từ nhân sinh

Các pháp theo nhân diệt

Gọi là sinh và diệt

Sa Môn nói như vậy.

Lúc ấy Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca hiểu rõ nghĩa pháp qua văn tự. Đại Đức Tỳ Kheo A Thấp Ba Du Kỳ Đa hiểu rõ văn nghĩa, lại nắm lấy ý nghĩa và văn tự.

Vậy cần gì phải nói nhiều.

Các pháp từ nhân sinh

Pháp ấy theo nhân diệt

Nhân duyên diệt là đạo

Đại Sư dạy như vậy.

Khi ấy Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca quán thấy pháp hạnh này như vậy, ngay tại chỗ ấy xa lìa trần cấu, diệt sạch phiền não, chứng được pháp nhãn tịnh, quán sát biết được tướng diệt của các pháp hữu vi. Giống như chiếc áo sạch không dính vết đen, không thấm mồ hôi nhơ bẩn thì dễ nhuộm các màu sắc.

Đúng vậy! Đúng vậy! Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca quán các pháp hạnh này, liền ngay lúc đó xa lìa trần câu quán biết thật tướng các pháp như vậy.

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca quán biết thật tướng các pháp như vậy rồi, được các pháp rồi, chứng các pháp rồi, nhập vào các pháp rồi, vượt qua các pháp rồi, không còn nghi ngờ, tâm chấp phải trái đều diệt, được địa vị vô úy, không do sự chỉ dạy của người khác, tự nhiên biết được pháp của Như Lai rồi liền nói kệ:

Pháp hành là như vậy

Là điều tôi chứng được

Na do tha số kiếp

Chưa từng được pháp này.

Khi Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca đã thấy thật tướng các pháp, đã được các pháp, phát sinh trí tuệ, xả bỏ ngã mạn, liền sửa sang y phục, đảnh lễ dưới chân A Thấp Ba Du Kỳ Đa, đứng dậy nhiễu quanh bên phải ba vòng, rồi từ giã trở về chỗ Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca.

Đến nơi, từ xa Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca trông thấy Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca gương mặt thanh tịnh, dung nghi tươi sáng, nên hỏi: Nhân Giả Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca, hiện nay các căn của bạn thanh tịnh, da dẻ tươi sáng, vẻ mặt tươi vui.

Phải chăng bạn đã chứng Cam Lộ?

Hay là chứng đạo Cam Lộ?

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca nói với Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca: Thưa nhân giả, tôi đã gặp thắng pháp Cam Lộ, đã được đạo Cam Lộ.

Câu Ly Đa nói với Ưu Ba Đê Sa: Nhân Giả được pháp Cam Lộ ở nơi vị nào?

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca đáp: Thưa nhân giả, tôi được pháp này nơi Đại Sa Môn.

Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca thưa: Thưa nhân giả, Đại Sa Môn đó nói những pháp gì?

Luận về những pháp gì?

Ngày nay nhân giả làm sao được thắng đạo cam lộ?

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca dùng kệ trả lời nhân giả Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca:

Các pháp từ nhân sinh

Pháp ấy theo nhân diệt

Nhân duyên diệt là đạo

Đạo Sư dạy như vậy.

Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca nghe bài kệ này rồi, liền ngay chỗ ấy xa lìa trần cấu, sạch các phiền não, được pháp nhãn thanh tịnh, chứng được tướng tịch diệt của tất cả pháp, biết như thật, hiểu như thật.

Ví như chiếc áo sạch không dính vết đen, không thấm mồ hôi thì dễ nhuộm các màu, cho đến quán biết như thật, rồi nói kệ:

Pháp hành là như vậy

Là điều tôi chứng được

Na do tha kiếp số

Chưa từng được pháp này.

Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca lại dùng kệ nói với Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca:

Vì anh được Cam Lộ

Mặt anh tươi như hoa

Anh tuyên dương pháp ấy

Tôi nghe, chứng tịnh nhãn.

Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca nói với Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca: Lành thay! Thưa nhân giả, mau đến đó, mau từ giã nơi đây đi đến chỗ Đại Sa Môn để tu phạm hạnh. Đức Phật Thế Tôn là thầy của chúng ta.

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca nói với Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca: Này nhân giả, ngày nay chúng ta không nên vô ân, nên đến gặp San Xà Da.

Vì sao?

Vì thầy trước đã đem lại cho ta nhiều lợi ích, ta mang trọng ân vì thầy đã độ cho ta xuất gia, nên phải đến thưa lời từ biệt. Lại nữa, năm trăm đồ chúng của thầy theo ta tu học pháp hạnh, ta thông báo cho họ biết, nếu họ muốn thì cùng đi với chúng ta.

Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca cùng Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca đi đến chỗ thầy San Xà Da Ba Ly Bà Xà Ca.

Đến nơi, cả hai bạch: Lành thay! Thưa nhân giả, ngày nay chúng tôi muốn đến chỗ Đại Sa Môn Phật Thế Tôn để tu phạm hạnh.

Khi ấy San Xà Da Ba Ly Bà Xà Ca bảo Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca: Này nhân giả, chẳng nên đến nơi đó. Ta cùng hai người lãnh đạo đại chúng này.

Như vậy, lần thứ hai Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca lại cũng nói với San Xà Da Ba Ly Bà Xà Ca: Hay thay! Thưa nhân giả, chúng tôi muốn đến chỗ Đại Sa Môn Phật Thế Tôn để tu phạm hạnh.

Khi ấy San Xà Da Ba Ly Bà Xà Ca lại nói với Ưu Ba Đê Sa Baly Bà Xà Ca: Này nhân giả, chẳng nên đến đó. Bao nhiêu đệ tử của ta đều giao cho người. ta sống riêng một mình, hoàn toàn không dự vào.

Như vậy, lần thứ ba Ưu Ba Đê Sa Ba Ly Bà Xà Ca và Câu Ly Đa Ba Ly Bà Xà Ca đồng thưa với San Xà Da Ba Ly Bà Xà Ca: Chúng tôi không muốn nhận các đệ tử này. Chúng tôi chỉ mong muốn đi đến chỗ Bậc Đại Sa Môn kia để tu phạm hạnh. Bậc Đại Sa Môn kia là Thế Tôn của chúng tôi, là Giáo Sư của chúng tôi. Nói lời này rồi, hai người từ giã San Xà Da ra đi không trở lại.

Lúc ấy năm trăm chúng ngoại đạo Ba Ly Bà Xà Ca suy nghĩ: Hai nhân giả Ưu Ba Đê Sa và Câu Ly Đa là người học rộng hiểu nhiều, thông minh trí tuệ. Chúng ta nhiều năm cần cù khổ sở, đọc tụng chú thuật, kỹ nghệ nhưng hai vị này chỉ trong bảy ngày đêm tinh thông tất cả.

Họ không phải là kẻ tầm thường, họ là kẻ thông minh nên chỗ họ mong cầu phải là chỗ tối thắng. Như chỗ họ mong cầu, chúng ta cũng theo đó mà mong cầu.

Pháp họ tu hành, chúng ta cũng theo đó tu hành. Phạm hạnh họ tu tập, ta cũng nên theo đó tu tập. Suy nghĩ như vậy rồi, họ cùng nhau đi theo Ưu Ba Đê Sa và Câu Ly Đa.

Lúc ấy San Xà Da Ba Ly Bà Xà Ca lại bảo đại chúng: Này các ngươi, chẳng nên đi! Chẳng nên đi! Tuy có lời ngăn như vậy mà không thể giữ đại chúng được, nên họ vẫn đi.

Khi ấy San Xà Da Ba Ly Bà Xà Ca suy nghĩ: Nay đại chúng này quyết định bỏ ta. Do đại chúng bỏ đi nên San Xà Da Ba Ly Bà Xà Ca hết sức ưu sầu khổ não, tức giận đau đớn mà chết. Ưu Ba Đê Sa cùng với Câu Ly Đa đem năm trăm đồ chúng cùng đi đến rừng Trúc Ca Lan Đà.

Khi ấy Đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo cần phải biết, phải trải tòa sạch sẽ trong Tu Viện này.

Các vị Tỳ Kheo bạch Phật: Dạ vâng! Chúng con xin vâng lời Thế Tôn dạy. Trong Tu Viện, các Tỳ Kheo trải tòa sạch sẽ và Thế Tôn ngự trên tòa này. 

Khi ấy Trưởng Lão Kiều Trần Như thấy Ưu Ba Đê Sa và Câu Ly Đa cùng chúng ngoại đạo vây chung quanh, sắp đến chỗ mình nên bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, nay có Ưu Ba Đê Sa và Câu Ly Đa, họ đa văn trí tuệ, có nhiều nghề nghiệp, thông thạo các đạo thuật, danh tiếng đồn khắp bốn phương đang đến trước Thế Tôn. Theo như ý con đoán, hai người này nay đến đây nhất định muốn tranh luận với Ngài.

Nghe lời này, Đức Phật bảo Trưởng Lão Kiều Trần Như: Này Kiều Trần Như, ta biết tâm niệm hai người này, họ đến đây là cầu pháp thù thắng, không phải đến để tranh luận.

Bấy giờ Đức Phật Thế Tôn trông thấy Ưu Ba Đê Sa và Câu Ly Đa nên nói kệ:

Gặp các Thánh là vui

Chung sống lại càng vui

Không gặp kẻ ngu si

Gọi là thường an lạc.

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo, các thầy có thấy hai vị ngoại đạo Ba Ly Bà Xà Ca không?

Một người tên là Ưu Ba Đê Sa và người kia là Câu Ly Đa.

Các Tỳ Kheo bạch Phật: Thưa Thế Tôn, chúng con có thấy.

Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo, hai người này sẽ ở trong hàng đệ tử Thanh Văn của ta, mỗi người đứng đầu về một phương diện, một người trí tuệ đệ nhất và một người thần thông đệ nhất.

Có kệ:

Đại chúng trông thấy hai người đến

Đồ chúng quyến thuộc vây chung quanh

Tiếng Phật vang dội bảo Tỳ Kheo

Hai người như vậy từ ngoại đạo

Nay đến xin vào đại chúng ta.

Tỳ Kheo các thầy nên phải biết

Một người trí tuệ hơn tất cả

Người kia thần thông lại đứng đầu.

Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Này các thầy, đối với tất cả đệ tử Thanh Văn của Chư Phật Thế Tôn Chánh Đẳng Chánh Giác trong quá khứ không ai sánh bằng hai người này và trong hiện tại cũng lại như vậy.

Này các Tỳ Kheo, nếu có hàng Thanh Văn của Chư Phật Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác ở đời vị lai cũng không thể sánh bằng hai vị đệ tử Thanh Văn này ngày nay của ta. Này các Tỳ Kheo, các thầy cũng nên trải tòa mời hai vị ấy ngồi.

Có kệ:

Hai vị trâu chúa trí sâu xa

Đã bỏ tất cả các tà đạo

Tuy chưa đến trong đại lâm này

Thế Tôn trông thấy liền thọ ký.

Khi hai người lần lần tiến bước gần Trúc Lâm, họ trông thấy Trưởng Lão A Thấp Ba Du Kỳ Đa đang đi kinh hành dưới một gốc cây, thấy vậy liền đến đảnh lễ dưới chân và lui đứng về một bên.

Kiều Trần Như bạch Phật: Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, tại sao ngày nay Ưu Ba Đê Sa không nghĩ đến đời sống cao thượng và học rộng của mình mà phát tâm tối thượng, đối với Trưởng Lão A Thấp Ba Du Kỳ Đa hạ mình thấp kém?

Nghe lời ấy, Đức Phật bảo Trưởng Lão Tuệ mạng Kiều Trần Như: Phàm người trí đối với người đã khiến mình được phát sinh trí tuệ thường khởi tâm báo ân, luôn luôn nhớ nghĩ chẳng quên. Nếu nhận lấy một ân nhỏ, thường nhớ chẳng quên, huống nữa là thọ ân nhiều.

Này Kiều Trần Như, Ưu Ba Đê Sa được pháp nhãn tịnh là nhờ A Thấp Ba Du Kỳ Đa.

Do nhân duyên đó mà có pháp cú:

Pháp Chư Phật thuyết giảng

Hiểu được qua người nào

Phải cung kính người ấy

Như Phạm chí thờ lửa.

Bấy giờ Ưu Ba Đê Sa cùng các đồ đệ đồng đến trước Đức Phật đảnh lễ dưới chân, quỳ xuống bạch: Lành thay! Bạch Đức Thế Tôn, ngày nay chúng con muốn ở trước Thế Tôn xuất gia tu tập. Cúi xin Thế Tôn cho con xuất gia thọ giới Cụ Túc.

Đức Phật bảo: Lành thay! Tỳ Kheo đến đây! Hãy đến đây gia nhập vào giáo pháp mà ta đã tự chứng để tu tập phạm hạnh, diệt sạch các khổ.

Đức Phật nói lời đó xong, các vị ấy tự nhiên râu tóc đều rụng, giống như Đồng Tử vừa cạo tóc cách đấy bảy ngày, thân mặc ba y, tay bưng bình bát, đều thành Tỳ Kheo, liền được xuất gia thọ giới Cụ Túc.

Bấy giờ Trưởng Lão Ưu Ba Đê Sa ở phía tay phải của Đức Phật, Trưởng Lão Câu Ly Đa ở bên tay trái Đức Phật. Còn bao nhiêu đều ngồi về một bên. Trưởng Lão Ưu Ba Đê Sa sau khi xuất gia được nửa tháng đã dứt sạch các kết lậu, hiện sức thần thông và chứng được thần thông trí tuệ Ba La Mật, thành tựu quả A La Hán.

Trong khi đó Trưởng Lão Câu Ly Đa chỉ trải qua bảy ngày dứt sạch các kết lậu, hiện sức thần thông và thần thông trí tuệ Ba La Mật, chứng quả A La Hán.

Do nhân duyên như vậy, Trưởng Lão Ưu Ba Đê Sa và Câu Ly Đa cùng năm trăm đồ đệ lúc bấy giờ lần lượt đều được xuất gia thọ giới Cụ Túc.

Thuở ấy, tên mẹ của Trưởng Lão Ưu Ba Đê Sa là Xá Lợi nhà Tùy dịch là Anh Dục, nên người đời gọi Ưu Ba Đê Sa là Xá Lợi Phất Đa Phất Đa nhà Tùy dịch là Tử.

Còn Trưởng Lão Câu Ly Đa có họ là Mục Kiền Liên, do vậy mà người đời gọi Trưởng Lão Câu Ly Đa là Mục Kiền Liên Diên.

Đức Thế Tôn lại thọ ký cho hai vị Tỳ Kheo này: Ở trong đệ tử Thanh Văn của ta, người có Đại trí tuệ là Xá Lợi Phất Đa và người có Thần thông đệ nhất là Mục Kiền Liên Diên.

Bấy giờ các Tỳ Kheo bạch Phật: Thưa Thế Tôn, hai vị Trưởng Lão Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở trong quá khứ đã trồng thiện căn gì?

Nhờ nhân duyên gì mà ngày nay được xuất gia thọ giới Cụ Túc, chứng quả A La Hán, lại được Thế Tôn thọ ký: Ở trong chúng Thanh Văn, hàng đại trí tuệ thì Xá Lợi Phất là hơn hết, trong hàng thần thông thì Mục Kiền Liên là tối thắng?

Nghe các Tỳ Kheo thưa hỏi như vậy, Đức Phật bảo họ: Này các Tỳ Kheo, ta nhớ đời quá khứ, tại thành Ba La Nại có hai người. Người anh tên là Tô Tất Lợi Da nhà Tùy dịch là Thiện Ái và người em gái cũng tên là Tô Tất Lợi Da. Khi ấy người anh Thiện Ái xả tục xuất gia. Sau khi xuất gia rồi, chứng được quả Bích Chi Phật.

Còn người em gái cũng xả tục xuất gia, nhưng theo ngoại đạo Ba Ly Bà Xà Ca, ở trong thành Ba La Nại. Vào một hôm, người anh Thiện Ái Bích Chi Phật đi đến chỗ người em gái ngoại đạo, đến nơi, tự trải tòa ngồi.

Người em bưng đủ thức ăn trăm vị hiến cúng để cho vị Bích Chi Phật thọ dụng no đủ, rồi lại đem một con dao và một cây kim dâng cúng cho người anh Bích Chi Phật. Vị Bích Chi Phật sau khi ăn uống xong, cầm con dao và cây kim của em gái Thiện Ái cúng bay đi trong hư không.

Người em gái Thiện Ái thấy vị Bích Chi Phật bay đi trong hư không, vui mừng hớn hở khắp cả thân tâm, không thể tự chế, từ xa chắp tay cung kính đảnh lễ Bích Chi Phật và phát nguyện: Nguyện đời sau, tôi gặp được vị Giáo Sư như vậy hay hơn thế nữa. Những giáo pháp của người dạy làm cho tôi được hiểu rõ và không bao giờ sinh vào các cõi ác.

Như cúng con dao bén, không gì là không cắt đứt, do nhân duyên cắt đứt này, khiến cho đời vị lai của tôi không một phiền não nào là không bị đoạn diệt.

Như cây kim có khả năng xuyên qua tất cả, khiến tất cả phiền não đời vị lai của tôi đều bị đâm thủng.

Này các Tỳ Kheo, Thiện Ái nữ ngoại đạo Ba Ly Bà Xà Ca cúng cho vị Bích Chi Phật con dao và cây kim thuở ấy đâu phải là người nào khác, tức là Tỳ Kheo Xá Lợi Phất.

Lại nữa, này các Tỳ Kheo, ta nhớ trong quá khứ cũng tại thành Ba La Nại có một người bán hàng thường vào trong biển, bắt ốc bán.

Lúc ấy người bán hàng nghĩ thế này: Đời này ta đi tìm của cải để sống, làm nghề này rất khổ. Ta nên làm việc công đức để gây nhân cho tương lai. Thuở ấy, tại thành Ba La Nại có một vị Bích Chi Phật thường trú nơi đây. Vào sớm mai, mặt Trời còn ở phương Đông, vị Bích Chi Phật đắp y mang bình bát vào thành khất thực.

Ở trong thành, vị Bích Chi Phật theo thứ lớp đi khất thực. Khi ấy người bán ốc từ xa trông thấy Tôn Giả Bích Chi Phật oai nghi chững chạc, đi đứng chậm rãi, dáng đi thư thái, bình thản bước tới.

Thấy vậy, tâm được thanh tịnh, người này liền đảnh lễ và mời vị Bích Chi Phật về nhà, rồi tôn trọng cúng dường các thức ăn sơn hào hải vị và cung cấp vật cần dùng.

Thông thường các vị Bích Chi Phật không thuyết pháp, chỉ dùng thần thông làm phương tiện giáo hóa, ngoài ra không có pháp gì khác.

Khi vị Bích Chi Phật ăn uống xong và nhận lấy vật dụng của người bán ốc, Ngài liền từ dưới đất bay lên hư không.

Khi đó trông thấy Tôn Giả Bích Chi Phật bay trên hư không như vậy, người này hết sức vui mừng tràn ngập toàn thân, không thể tự chế, hướng về chắp tay đảnh lễ vị Bích Chi Phật, phát nguyện: Ở đời vị lai tôi sẽ gặp được vị Giáo Sư như vậy hay hơn thế nữa. Giáo pháp người nói ra, tôi mau hiểu rõ, đời đời sinh ở đâu chẳng rơi vào ác đạo. Những gì Giáo Sư có, tôi nguyện cũng chứng đắc đồng như Thánh giả.

Bích Chi Phật bay đi trong hư không, khiến tương lai tôi cũng như vậy.

Này các Tỳ Kheo, các thầy nghĩ thế nào?

Người bắt ốc bán thuở ấy, sau cúng dường vị Bích Chi Phật đâu phải người nào khác, tức là Tỳ Kheo Mục Kiền Liên này.

Này các Tỳ Kheo, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên do đời trước trồng các căn lành nên ngày nay xuất gia chứng quả A La Hán, lại được ta thọ ký: Trong số đệ tử Thanh Văn của ta, người có trí tuệ hơn hết là Xá Lợi Phất và người có thần thông hơn hết là Mục Kiền Liên.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần