Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Bốn Mươi Năm - Phẩm ưu Ba Tư Na - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM BỐN MƯƠI NĂM

PHẨM ƯU BA TƯ NA  

PHẦN HAI  

Lúc bấy giờ công chúa Ý Hỷ bạch Phụ Vương: Hay thay! Thưa Phụ Vương, trên thân con gái của cha không thiếu vật gì, chỉ xin Phụ Vương một việc. Cúi xin Phụ Vương cho phép con trình bày.

Rồi nàng nói kệ:

Phụ Vương, con nay muốn bố thí

Vào ngày mười lăm, tháng có trăng

Cho con số đến ngàn tiền vàng

Bố thí Sa Môn, Bà La Môn.

Vua Ương Già Đà nghe con mình nói lời như vậy, liền dùng kệ bảo công chúa Ý Hỷ:

Thiện Nữ, con nay lắng tai nghe cha nghe bậc trí nói thế này:

Dù có bố thí nhiều tiền của

Tất cả đều không quả báo gì

Con nay vì sao nghĩ như vậy?

Mê hoặc người ngu ở thế gian

Hiện tại, vị lai đều vô bổ

Cần gì con phải chịu nhọc nhằn

Con sao nay chẳng nghe người nói:

Ca Diếp thuyết pháp chẳng sai lầm

Nghiệp nhân người tạo thảy đều không

Quả báo thiện ác Cõi Trời người

Dạ Xoa, quỷ, thần đều chẳng có,

Cha mẹ, quyến thuộc lại cũng không

Nói tóm, tám vạn bốn ngàn đời

Phiền não như vậy mới diệt sạch.

Nếu vượt tám vạn bốn ngàn này

Lưu chuyển tâm không bị rối loạn

Giống như sóng biển chẳng định kỳ

Trong đó chưa đến không đoán trước

Mặc cho trôi nổi đợi thời gian

Cố gắng làm chi đời rắc rối.

Lời nói Ca Diếp con phải thông

Việc này chân thật chẳng điêu ngoa

Hiện tại, vị lai đều không có

Nay con chớ tự làm khổ mình.

Công chúa Ý Hỷ nghe Phụ Vương nói như vậy, trong lòng chẳng vui, lại dùng kệ thưa:

Cha nay làm chủ quốc gia này

Nên dùng chánh pháp trị dân chúng

Ác Thần dua nịnh lời bất chánh

Khuyên cha thờ phụng kẻ ngu si

Ba vị Đại Thần cùng Ca Diếp

Lời nói của họ thiếu chánh chân.

Thưa cha, họ đều ác tri thức

Nay giả hiện trò kẻ thông minh

Mình tu tà đạo lại dụ người

Hạ tiện ngu si nào có khác

Chẳng mang an lạc đến cho Vua

Ngược lại bày Vua hành bất thiện.

Con xưa từng biết việc thế này

Hiện tại thân con tự chứng biết

Vì cớ ngu si sinh đến đó

Thân sau cũng lại bị ngu si

Ra khỏi tối tăm, vào tăm tối

Rồi sau trở lại chỗ tối tăm.

Ca Diếp đã là kẻ vô trí

Ý người ngu si hợp lời nói

Phụ Vương lãnh chúa trị bốn phương

Thông hiểu thế gian các nghĩa lý

Tại sao chẳng khác bọn trẻ thơ

Đi vào đường hẻm hành tà đạo?

Ý cha tùy thuận người thân cận

Học hỏi với nhau bị xấu lấy

Như tên máu làm nhơ bẩn

Buộc chung tên khác lại dính lây.

Người trí giao du cẩn thận trọng

Đối với bạn ác phải đề phòng

Tuy mình không làm điều tội lỗi

Nhưng thường gần ác, thành kẻ ác

Gần gũi lâu ngày thành thói quen

Về sau tự nhiên lấy tánh ác.

Giống như mô đất tập bắn kia

Người trí sợ lấy ác cũng vậy

Chẳng nên giao kết bọn ác tri

Nên thường gần gũi thiện trí tuệ.

Thân nghiệp chúng sinh nếu thanh tịnh

Trải qua tám vạn bốn ngàn đời

Với tên đồ tể giết sinh mạng

Cùng người săn thú, kẻ thả câu

Ca Diếp nào khác hạng người này

Hạng này cũng như lũ Ca Diếp

So sánh cả hai đồng một loại

Không hơn không kém, chẳng khác nhau.

Do vì Ca Diếp không tỏ ngộ

Ngu si mờ mịt uổng xuất gia

Lấy nhân giả dối cho thanh tịnh

Mãn phần tám vạn bốn ngàn đời

Điên đảo sai lầm hành bất chính

Vô trí ngu si tâm mê muội.

Nếu khi chúng sinh hành thanh tịnh

Chẳng thọ tám vạn bốn ngàn đời

Còn như giặc cướp hại người vật

Làm ác cùng nhau tạo oán thù.

Ca Diếp với họ chẳng hơn kém

Họ cùng Ca Diếp không có khác.

Chúng sinh nếu tu nhân thanh tịnh

Tại sao tám vạn bốn ngàn đời

Còn như hạng người hành thiện ác

Gieo nhân tốt xấu với trung bình

Tất cả ngang nhau không hơn kém

Đời sống lại cũng không khác nhau?

Nếu nói chúng sinh tu thanh tịnh

Trải qua tám vạn bốn ngàn đời?

Người ấy ngu si, không trí tuệ

Giống như Ca Diếp uổng xuất gia.

Ví như lửa hồng thiêu nóng bỏng

Đốt sạch tất cả vật cúng thờ

Do vì vô trí ngu si vậy

Tự đốt tất cả núi công đức.

Đại Thần Tiền Ngôn biết vị lai

Làm điều tội lỗi không quả báo

Đời trước chúng sinh tu phước thiện

Nên nay tâm được hưởng an vui.

Nếu trước người làm điều tội lỗi

Hết phước tự nhiên thọ tai ương

Như thuyền lênh đênh trên mặt nước

Chìm sâu chẳng nổi vì chở nặng.

Người nào không thể vượt lên bờ

Chìm sâu trong nước đều tan rã

Giống kẻ thường xuyên gây tội ác

Gây mãi chẳng thôi, tội chất chồng

Người ấy chết rồi đọa địa ngục

Thưa cha, Tiền Ngôn này cũng vậy

Do tội ông ta chưa chín muồi

Chín muồi tự biết chẳng mấy hồi

Tội thành liền rơi vào địa ngục

Giống như thuyền nọ chìm trong nước

Bị lớp rêu xanh phủ bên ngoài

Lớp rêu tự mọc không thể cản

Thuyền lâu như vậy càng dày đặc

Người tạo tội lỗi chẳng khác nào

Càng lâu tội lỗi càng thêm nặng

Còn như người tạo nghiệp nhân lành

Người ấy mau sinh lên Thiên Giới.

Xưa làm tất cả điều tội lỗi

Ngày nay như giống gieo trên đất

Tội nghiệp hết rồi lại liền sinh

Nếu như thiện nghiệp được vun trồng

Tức được quả lành sinh Thánh cảnh.

Sau khi công chúa Ý Hỷ nói kệ rồi, lại một lần nữa tâu Phụ Vương: Xin Phụ Vương biết cho, con tự tư duy cũng biết kiếp quá khứ.

Việc ấy thế nào?

Việc ấy thế này: Con nhớ trong thời quá khứ đã bảy lần sinh trong thành Vương Xá, thuộc nước Ma Già Đà. Lúc đó do ác tri kiến lôi cuốn, con làm nhiều điều tội lỗi, hành tà hạnh, xâm phạm trinh tiết thê thiếp của người, thọ vui như Cõi Trời.

Đại Vương nên biết, lúc ấy con tạo các nghiệp dữ, che giấu tội lỗi mà sông, giống như lửa lấp trong tro. Lại nữa thưa Phụ Vương, sau khi mãn báo thân ở thành Vương Xá, con lại đầu thai vào một nhà phú quý thuộc làng Kim Cang.

Sống ở nơi đây con gặp được thiện tri thức, thường vào các ngày mùng tám, mười bốn và rằm cửa mỗi nửa tháng không trăng và có trăng, thọ trì tám pháp trai giới thanh tịnh.

Phụ Vương phải biết, khi con ở nơi đây đã tạo các thiện nghiệp, ví như chôn giấu kho tàng khắp nơi cho đến mé biển, niêm phong kiên cố, lại cứ như vậy mà thi hành.

Lại nữa thưa Phụ Vương, con cũng bỏ thân mạng nơi làng Kim Cang. Do nhân duyên quá khứ tạo ác nghiệp còn lại nên liền khi đó đọa vào địa ngục kêu la. Ở trong địa ngục này chịu cực khổ trải qua nhiều ngàn năm.

Lại nữa thưa Phụ Vương, khi tội địa ngục hết rồi, bỏ thân này liền thọ thân con dê đực trắng ở trong nước Tần Na Câu Tra, sống ở nơi đây hoặc bị kéo xe, hoặc bị thắng yên cương để các Vương Tử cỡi.

Lại nữa thưa Phụ Vương, con sống ở nước Tần Na Câu Tra đã thoát khỏi thân dê đực trắng lại sinh vào nước Đà Tỳ La, cũng mang lấy thân dê. Ở nơi đây thân dê chết rồi lại thọ lấy thân trâu. Cũng ở nơi đấy xả báo thân trâu, lại thọ lấy thân khỉ, sống trong rừng núi.

Lại nữa thưa Phụ Vương, khi con ở trong rừng núi, xả bỏ thân khỉ, trở lại sinh trong nước Kim Cang thọ thân người chẳng phải nam chẳng phải nữ.

Sau khi nghiệp báo hết rồi, xả thân phi nam phi nữ ở nước Kim Cang, liền sinh trong hoa viên Hoan hỷ, nơi cung Trời Đao Lợi, làm người hộ vệ cho Trời Đế Thích.

Lại nữa thưa Phụ Vương, sau khi con xả báo thân nơi cung Trời Đao Lợi, do xưa mỗi tháng giữ gìn lục trai thanh tịnh nên ngày nay được sinh vào nhà Đại Vương, của cải dẫy đầy chẳng thiếu thứ gì.

Ngày nay Phụ Vương không tự quán nhân duyên này, không biết từ đâu mà được công đức như vậy, không thể không do đời trước tạo nghiệp mà ngày nay thọ phước báo như thế này hay chăng?

Trong khi Vua Ương Già Đà và công chúa Ý Hỷ đối thoại như vậy, ngay lúc đó có một Thiên Tiên tên là Bất Na La Đà nhà Tùy dịch là Bất Khiếu Hoán từ Thiên Giới giáng xuống quán sát cõi Diêm Phù Đề, từ trên hư không từ từ hạ xuống, nhằm chính cung điện của Nhà Vua Ương Già Đà.

Khi công chúa Ý Hỷ thấy Thiên Tiên từ trên hư không giáng xuống như vậy, liền đứng dậy đi tôn trí một tòa cao lớn mời Thiên Tiên an tọa trên đó.

Khi Thiên Tiên an tọa xong, công chúa đảnh lễ dưới chân Thiên Tiên rồi chắp tay hướng về Thiên Tiên thưa: Thưa Tôn Giả Thiên Tiên, ở trong thế gian tạo các nghiệp có các quả báo thiện ác hay không?

Có các loài Dạ Xoa và Chư Thiên hay không?

Có cha mẹ không?

Có đời này, đời khác không?

Cúi xin Thiên Tiên vì tôi giải thích rõ ràng, vì Phụ Vương tôi không tin các việc ấy.

Đại Tiên Bất Na La Đà lại hỏi Vua Ương Già Đà: Thưa Đại Vương, ngày nay Đại Vương thật sự không tin những việc như vậy phải không?

Nhà Vua liền đáp: Tôi tin việc ấy là như vậy.

Thiên Tiên nói tiếp: Đại Vương phải biết, tất cả quả báo thiện ác đều có và cho đến cũng có Chư Thiên, Dạ Xoa, cha mẹ, đời này, đời sau, Sa Môn, Bà La Môn Đại Vương phải biết, ta từ Thiên Giới giáng xuống đây.

Vua Ương Già Đà nói với Thiên Tiên: Thưa Tôn Giả Thiên Tiên, nếu có đời sau thì ngày hôm nay xin Tôn Giả cho tôi mượn năm trăm tiền vàng, rồi vào đời sau tôi sẽ trả lại Tôn Giả đến một ngàn tiền vàng.

Thiên Tiên Ba Na La Đà đối với Nhà Vua nói kệ:

Ta nay cho Vua năm trăm tiền

Thân Vua cần phải giữ cấm giới

Tâm Vua nếu không hành thiện pháp

Lấy gì đời sau trả ngàn tiền?

Đời này có người nói dua nịnh

Đời sau mong sống cảnh giới nào?

Người trí không bạn với người này

Như vậy làm sao hòng vay mượn.

Sau đọa địa ngục cháy phừng phừng

Hoặc bị loài chim bao vây mổ

Sau lại làm sao trả nợ ta?

Khi đọa địa ngục chịu các khổ

Dao bén cắt xén chẳng toàn thây

Phân thây từng mảnh máu tuôn trào

Khổ não triền miên không tạm nghĩ

Làm sao ngàn tiền trả cho ta?

Tay cầm dao bén lột da gân

Chặt chẻ xác thân như róc mía

Thân phần cơ thể nát tơi bời

Làm sao trả ta tiền gấp bội?

Chó đen hung dữ thân nhơ nhớp

Rảo đi khắp xứ xé thịt ăn

Làm cho tội nhân thân không thịt

Đời sau làm sao trả bội phần?

Địa Ngục có chĩa lớn bén nhọn

Ngục tốt thường rượt phóng lên thân

Tội nhân trong ngục bị treo ngược

Làm sao trả ta một ngàn tiền?

Địa ngục có rừng nhiều dao kiếm

Mỗi kiếm trên đầu mười sáu dao

Trên đó thân thủng chẳng tạm dừng

Làm sao trả ta tiền gấp bội?

Địa ngục sông tro nước nóng sôi

Chảy nhanh như gió, như tên bắn

Rơi vào trong đó chịu khổ đau

Làm sao trả ta tiền gấp bội?

Ở trong địa ngục hòn sắt nóng

Hoặc là địa ngục nước đồng sôi

Trong đó tội nhân khổ bức xúc

Làm sao trả ta tiền gấp bội?

Địa Ngục có tay như mưa xổi

Đều phóng lửa nóng cháy phừng phừng

Cắt xẻ từng phần không tạm nghỉ

Làm sao trả ta tiền gấp bội?

Địa ngục tăm tối thật kinh hoàng

Nhật nguyệt sáng soi không chiếu đến

Ngu si vô trí sống ở trong

Làm sao trả ta tiền gấp bội?

Đại Vương nên bỏ điều phi pháp

Vua nên thực hiện pháp chánh chân

Pháp ấy như vậy Vua tu tập

Mai sau địa ngục khỏi sa vào.

Sa Môn Phạm Chí khắp bốn phương

Hễ họ đến cầu xin vật thực

Vua dâng ẩm thực thật dồi dào

Y phục, thuốc thang, phòng, đồ ngủ

Vì bậc phạm hạnh hành tinh tấn.

Lời nói Sa Môn, Bà La Môn

Có thể giúp Vua khỏi khổ não

Giống như tàng lọng che mưa nắng.

Khi Vua thực hiện thiện nghiệp này

Có nhiều bằng hữu theo tùy hỷ

Đi đường hoàn mỹ đến an lành

Trong các thần thông đây trên hết.

Như trâu lội nước thẳng ngang sông

Ai nắm đuôi trâu cũng qua được

Tất cả thế gian đều như vậy

Gieo nhân tà chánh, quả tà chánh

Ở trong số người hành chánh pháp

Hễ ai thực tập kẻ đó hơn.

Khi Vua Ương Già Đà nghe nói như vậy, lại dùng kệ thưa Thiên Tiên Na La Đà:

Thiên Tiên Đại Phạm thương xót tôi

Giống như cha mẹ thương con đỏ

Cúi xin vì tôi thường lai vãng

Gặp được người trí thấy điều lành.

Cúi xin Tôn Giả bày lối thoát

Phiền não biển sâu con hụp lặn

Con nay như người không đất đứng

Xin Ngài cho con về tựa nương.

Cúi xin Đại Phạm cứu hộ con

Nay con mờ mịt rơi hố thẳm

Hằng sa địa ngục khổ vô cùng

Nay vâng Tôn Giả chẳng dám sai.

Lúc ấy đại Tiên Na La Đà lại dùng kệ bảo Vua Ương Già Đà:

Vua nay tạo tội nếu chẳng thôi

Ganh ghét Sa Môn và Phạm Chí

Điên đảo chấp đoạn lại chẳng trừ

Ta không bao giờ gặp trở lại.

Nếu Vua ra sức hành chánh pháp

Phụng thờ Sa Môn, Bà La Môn

Tinh tấn, trì giới, bố thí, thiền

Ta, Vua cùng nhau thường hội ngộ.

Khi Thiên Thần đại Tiên Na La Đà vì Vua Ương Già Đà thuyết pháp, giảng dạy khiến cho Nhà Vua sinh chánh kiến, Nhà Vua hồi tâm, ý rất hoan hỷ, chắp tay đảnh lễ Thiên Tiên, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng, rồi Na La Đà rời khỏi chỗ ngồi, từ giã Vua Ương Già Đà trở về Thiên Giới.

Khi ấy Đức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo: Này các thầy, Thiên Tiên Na La Đà thuở ấy tức là thân ta ngày nay, còn Vua Ương Già Đà thuở ấy nay là ông Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp.

Rồi Đức Phật nói tiếp: Này các thầy, thuở xưa ta thấy Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp tà kiến quá nặng, rơi vào con đường điên đảo. Ta lúc ấy phát tâm tinh tấn giáo hóa khiến người đi vào chánh đạo.

Ngày nay cũng vậy, ta thấy ông ta điên đảo, rơi vào tà kiến, nên ta phát tâm đại tinh tấn, thị hiện năm trăm phép thần thông biến hóa để giáo hóa, khiến ông ta an trú vô thượng bồ đề, không còn sinh tử, đạt đến cảnh giới vô úy, chứng quả Niết Bàn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần