Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Hai Mươi Sáu - Phẩm Bồ Tát Hỏi đạo Tiên A La La - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM HAI MƯƠI SÁU

PHẨM BỒ TÁT HỎI

ĐẠO TIÊN A LA LA  

PHẦN HAI  

Rồi Tiên A La La nói kệ:

Nếu người muốn đạt đến chánh kiến

Tứ Thiền thanh tịnh nơi giải thoát

Nếu tâm hiểu rõ trí kia rồi

Chân Thánh, phỉ Thánh đều biết rõ.

Phân biệt như trên cần thông suốt

Như vậy gọi là hiểu Tứ Thiền

Các hành vô hành đều xả bỏ

Ngữ văn ngôn tự đều không còn.

Đại phạm cảnh Trời là chốn ấy

Tuyên dương phạm hạnh ở trần gian

Nếu ai giữ trọn pháp môn này

Sẽ được sinh về Trời Đại Phạm.

Lúc bấy giờ Bồ Tát nghe

Tiên A La La nói lời như vậy.

Ngài lại hỏi phương pháp thực hành: Nếu thực hành các phương tiện thì đến cõi nào và dựng tịnh hạnh, tu hành, cần phải hành chỗ nào và pháp gì?

Xin Tôn Giả vì tôi giải thích tất cả.

Lúc ấy Tiên A La La căn cứ nghĩa tôn thể trong tổng luận của mình, đem giải thích đầy đủ cho Bồ Tát nghe: Này Nhân Giả Cù Đàm, phàm người muốn tu hành cần phải rời bỏ cung điện, theo hạnh người xuất gia khất thực để sống, phát thệ nguyện rộng lớn, giữ gìn giới hạnh, đời sống đạm bạc, ẩm thực y phục, đồ ngủ nghỉ phải biết thích nghi hoàn cảnh, sống một mình ở nơi vắng vẻ.

Theo sự hiểu biết của tôi thì trong các luận có dạy: Thấy các sai lầm của tham dục, sân hận, ngu si và cần phải lánh xa. Điều phục các căn, xa lìa dục vọng, nhập vào chánh định hưởng nhiều khoái lạc đi vào Sơ Thiền. Bấy giờ ở nơi vắng lặng xa lìa các dục, không còn ác pháp, phân biệt sinh ly, tức chứng Sơ Thiền.

Được Sơ thiền rồi trở lại tư duy phân biệt như vậy, lần lần được an lạc. Đã được an lạc rồi, lại trụ trong định vắng lặng, do nương vào sức định này, ý lại càng xa lìa tham dục sân hận, càng xa lìa phiền não, tâm được hoan hỷ, càng hoan hỷ thì trí tuệ lại càng thêm tăng trưởng, lúc ấy liền sinh lên cung điện Phạm Thiên.

Đã sinh vào Cõi Phạm Thiên rồi, lại tư duy phân biệt thế này: Cảnh giới này sẽ làm rối loạn trí tuệ của ta cần phải loại trừ. Loại trừ cánh giới này rồi liền chứng Nhị Thiền, tâm rất hoan hỷ.

Tâm đã được hoan hỷ rồi, lại thấy hoan hỷ làm rối loạn tâm, nên cầu mong sống cảnh giới tốt đẹp hơn, tức sinh lên Cõi Trời Quang Âm.

Đã đến Cõi Quang Âm rồi, được thọ lạc ở đấy, họ muốn xa lìa sự vui sướng đó. Sau khi xa lìa sự vui sướng này, liền chứng tam Thiền.

Ở trong tam thiền hoàn toàn khoái lạc, mà các Cõi Trời Biến tịnh ở đây càng lên cao lại càng thù thắng, nếu có thể xả bỏ lạc thú này, không cảm thọ, không mê đắm tức là tâm đã xả bỏ được các thứ khổ vui, liền chứng Tứ Thiền.

Như vậy ở cảnh giới này tất cả khổ vui và tâm chấp đều bị xả bỏ. Lại có người, tâm họ không thỏa mãn Tứ Thiền, nên cầu pháp giải thoát, muốn vượt qua quả báo Tứ Thiền, trong tâm tư duy quán sát, thấy chúng sinh Trời Quảng quả Cõi Tứ Thiền trí tuệ thô thiển.

Vị Tiên lại nói: Người này tư duy như vậy rồi, sau khi xuất định thấy sắc thân của mình có các tai họa, đau khổ, muốn xả bỏ sắc thân cầu trí tuệ tối thắng, nên phát tâm xa lìa cảnh Tứ Thiền. Người này xả bỏ các tâm giống như khi phát tâm xả bỏ các dục vọng như vừa nói ở trước.

Do vì muốn xả bỏ sắc thân thô, mà phát tâm xa lìa Tứ Thiền như vậy. Lúc bấy giờ họ phân tích các sắc tướng trong thân thể trống không, không có ranh giới, đối với tất cả sắc tướng từ nội thân cho đến cây cối ngoại cảnh, phân tích tất cả vật chất thành hư không không có giới hạn.

Phân tích tất cả sắc chất thấy rõ ràng trống không, không có giới hạn như vậy, tức là chứng được cảnh giới thù thắng.

Kệ nói:

Cõi Trời Đại Phạm thật nhiệm mầu

Tất cả vô ngôn, thường vô tướng

Người trí bảo rằng Nhân Giải thoát

Còn gọi đó là quả Niết Bàn.

Lúc ấy Tiên A La La nói kệ này rồi, lại bạch Bồ Tát: Thưa Nhân Giả Cù Đàm, đây là cảnh giải thoát và phương tiện đạt đến cảnh giải thoát của tôi, nay tôi vì Nhân Giả thuyết minh một cách rõ ràng.

Theo như lời trình bày của tôi, nếu Nhân Giả đối với pháp này sinh tâm hoan hỷ, Ngài có thể lãnh thọ.

Rồi vị Tiên nói kệ:

Thanh tịnh giải thoát pháp như đây

Ta đã biết rồi nay quảng diễn

Nhân Giả tâm ý nếu hoan hỷ

Xin Ngài theo đây mà nhận lấy.

Tiên A La La lại nói: Thuở xưa có các Tiên Nhân Kỳ Xa nhà Tùy dịch cầu Thắng, Tỳ Du Xà Na nhà Tùy dịch Ly Biệt Não, Ba La Xa La nhà Tùy dịch Tha Tiễn và một số các Tiên Nhân khác đồng ca ngợi pháp giải thoát này, cũng đồng tu phương pháp này mà được giải thoát.

Nhân Giả là bậc Trượng phu đại trí, có khả năng tu tập pháp môn này. Nếu Ngài chịu tu tập sẽ được quả báo giải thoát tốt đẹp.

Khi ấy Bồ Tát nghe Tiên Nhân A La La nói pháp môn thanh tịnh, nên lãnh thọ thực hành, muốn làm hạnh Sa Môn, muốn cầu quả Sa Môn, cho nên thực hành pháp môn này, liền chứng được. Bồ Tát khi nghe pháp môn này từ Tiên A La La nối ra tin tưởng thực hành không chút chống trái.

Ngài cũng chẳng nói: Ta đã biết trước, chỉ thọ trì pháp, tư duy tinh tấn, phát sinh ý chí kiên cố cầu quả báo tốt đẹp. Khi Ngài chứng được cảnh giới tốt đẹp ấy, cũng không sinh tâm ngã mạn chê bai vị Tiên ấy.

Nhưng, Ngài tự suy nghĩ: Chẳng riêng gì Tiên A La La có đức tin, ta cũng có đức tin như vậy! Chẳng riêng gì Tiên A La La có hạnh tinh tấn, Chánh hạnh Tam Muội và Trí tuệ Tam Muội ta cũng có các hạnh trí tuệ cũng lại như vậy.

Ngày nay ta sẽ cầu chứng được pháp như Tiên A La La đã chứng, rồi phân tích rõ ràng cho người nghe để họ đạt được cảnh giới tốt đẹp đó.

Bồ Tát theo sự hiểu biết mà thực hành, đã chứng được tất cả pháp hạnh do Tiên A La La chỉ bảo.

Nhưng Bồ Tát tu pháp môn này không lấy làm khó nhọc, chỉ trong một thời gian ngắn Ngài đã chứng một cách trọn vẹn.

Rồi theo chỗ tu chứng của mình thuyết minh một các thông suốt, giống như Tiên A La La không khác gì cả.

Rồi Bồ Tát đến trước Tiên A La La thưa: Bạch Tôn Giả A La La, Ngài căn cứ vào pháp trí tu chứng của mình, rồi nói lại cho người khác nghe, phải chăng pháp giới đó cầu sinh cảnh giới Vô tưởng?

Bồtất vừa dứt lời, Tiên A La La lại đáp: Thưa Trưởng Lão Cù Đàm, pháp trí như vậy tôi đã thật chứng, trình bày lại cho người khác một cách thông suốt rõ ràng.

Bồ Tát lại nói: Thưa Tôn Giả tôi được nghe giáo pháp của Ngài, y như lời Ngài dạy, tôi tin hiểu và thực hành đã chứng được pháp ấy rồi.

Nếu người trí biết thực hành và cầu sinh cảnh giới ấy, cũng không xả bỏ phương pháp này.

Nhưng theo ý của tôi, thì pháp này tuy vi diệu nhưng chưa đạt đến chỗ rốt ráo.

Tại sao?

Với sự quán sát tư duy, theo ý tôi cho rằng pháp này còn có khi biến động. Nhưng bản tánh của cảnh giới này nó là như vậy, tuy đã biết trí này là vô trí, lại phát sinh các pháp khác.

Tuy Tôn Giả nói: Ta được giải thoát thanh tịnh. Nếu pháp giải thoát ấy do phân biệt quán sát mới có, thì đó chỉ là pháp nhân duyên, nên gặp duyên thì nó phát sinh trở lại, chẳng phải chân thật giải thoát.

Giống như hạt giống gieo không phải mùa, hoặc không hợp thời tiết, hoặc khô nước, hoặc không gặp mưa, thì tiềm tàng trong đất không nảy mầm. Nếu hạt giống gieo đúng mùa, độ ẩm thích hợp, đầy đủ các duyên hòa hợp, phát sinh.

Nay đây cũng vậy, chỉ vì vô trí chấp trước nghiệp ái, khi xả bỏ được các thứ phân biệt chấp trước nghiệp ái này, cho là ta được giải thoát. Nhưng còn chấp ta giải thoát thì đều phải xả, tức phải xả các ái do vô trí, nghiệp không có chỗ kết hợp.

Tuy hơn cảnh giới Tứ Thiền ở trước, nhưng chưa phải là chỗ chân thật. Hễ còn phân biệt là còn chấp ngã, những vi tế ấy do ba việc mà có.

Từ các thứ phiền não vi tế này, lại chấp có một cảnh giới vô tác dụng riêng biệt và chấp lấy tuổi thọ lâu dài, nói rằng ta đã giải thoát.

Rồi Ngài nói kệ:

Do các tai họa rất vi tế

Nên thọ dụng thân không tác dụng

Kiếp sổ thọ mạng thật lâu dài

Lại chấp cho là ta giải thoát.

Bồ Tát lại nói: Theo như Tôn Giả đã nói ở trước ta đã xả ngã.

Đã nói ta đã xả ngã, thì không gọi là chân thật xả ngã.

Nếu còn căn cứ, còn phân biệt là chưa giải thoát, thì không thể nói là không còn nhiều đau khổ.

Do vậy phải biết, chỗ có nhiều khổ không thể nói đó là chỗ vô ngã giải thoát.

Có ngã là có khổ, không thể tách rời ra được.

Cũng như ánh lửa và sức nóng, sức nóng không thể tách rời ánh sáng lửa, ánh sáng lửa không thể tách rời sức nóng.

Thể của hai thứ riêng nhau, trước không nay hợp lại mà có thì không đúng.

Ngã đã như vậy thì tất cả khổ não cũng vậy.

Giải thoát cõi này để đạt đến cõi kia, rồi bị cõi kia ràng buộc, do vì trí chấp lấy cảnh giới.

Họ diệt hết sắc chỉ còn có thức, họ biết có ngã thức tức là hữu, do có hữu nên không được gọi là giải thoát.

Vì cảnh giới thành tựu của ngã có hơn kém.

Như vậy có thể biết cảnh giới tốt đẹp mà họ mong cầu là thế.

Do vì nghĩa này, chẳng cần phải phân biệt đâu là ngã hay chẳng phải ngã, như gỗ như vách, gỡ bỏ từng lớp lại chồng lên từng lớp.

Người có trí nên tư duy về ngã, đều buông xả tất cả cảnh giới để được tự lợi.

Rồi Ngài nói kệ:

Thứ tự các lớp đều buông bỏ

Như vậy mới là xả cảnh giới

Tất cả căn trần đều xả hết

Thế là tự lợi với tự tha.

Bấy giờ, trong đồ chúng của Tiên A La La có một đệ tử bạch Bồ Tát: Đại Đức Cù Đàm, Ngài đến đây khiến chỗ ở của chúng tôi đều được tốt đẹp và có tám điều được tự tại.

Bồ Tát hỏi: Nơi này có tự tại gì?

Khi ấy Tiên A La La cắt ngang, bảo đệ tử: Con chớ suy nghĩ đến việc này.

Vì lý do gì?

Tự tại nghĩa là đối tất cả sự việc có khả năng quyết định, không lệ thuộc với người khác, không theo bạn bè, thân mình tự chứng cảnh an định mới sinh hoan hỷ.

Bồ Tát đáp: Tự tại không phải vậy.

Tiên A La La hỏi: Vậy việc ấy thế nào?

Bồ Tát liền đáp: Tự tại không phải như vậy, không phải như vậy.

Tiên A La La lại nói: Nhân Giả cứ trình bày, không được nói lời uẩn khúc.

Bồ Tát nói: Nếu y như lời Tôn Giả nói, thì hạnh này không còn luân hồi hay sao?

Tiên A La La lại hỏi: Nhân Giả vì cớ gì đưa ra câu hỏi như vậy?

Bồ Tát đáp: Ngày nay tâm tôi nhàm chán sự sinh muốn cầu hỏi chỗ chân chánh.

Tiên A La La nói: Này Nhân Giả Cù Đàm, Ngài muốn nghe chăng, tôi sẽ vì Ngài mà nói.

Muốn khai hóa thế gian gọi đó là ngã, chỉ có danh từ mà không sinh không già, không thoái không lại, không trong không ngoài, không trước không sau gọi đó là ngã.

Tự tại là có thể vào trong luân hồi, ở trong sinh tử cũng không tạm dừng. Nó là pháp và phi pháp, Trời và tất cả các cõi, có thể đi xa, có thể tạo thành chiếc thuyền, ngồi trên chiếc thuyền này có thể vượt qua biển thẳm, lưu chuyển qua lại, hay tạo sinh tử, cũng hay biến hóa, tự tại tối thắng, tối diệu tối đại, làm chủ thế gian giáo hóa tất cả.

Bồ Tát hỏi: Biến hóa như thế có gì làm bằng chứng không?

Tiên A La La nói: Nghe lời hỏi của Nhân Giả chắc chắn Ngài không chấp nhận giáo nghĩa mà tôi vừa nói, hoặc hiện giờ Nhân Giả tâm không ham thích nữa.

Bồ Tát nói: Ta không có việc ấy.

Tiên A La La nói: Đại Đức Cù Đàm chớ có nghi ngờ, tùy theo ý của Ngài, mà luận thuyết chủ trương của mình khéo tư duy thâm nhập, để tự soi sáng. Nếu tự hiểu biết thì không bị kẻ khác lừa dối, không nghe theo nghĩa lý khác.

Chứng được như vậy gọi là tự lợi, người khác không bằng. Nếu tâm không quyết định, theo các luận sư khác mà chấp nhận giáo pháp của họ, thì trí tuệ của Ngài sẽ bị tổn giảm.

Nhân Giả nghe pháp của tôi, đối với mỗi pháp, hãy đọc tụng tư duy chân chánh, quán sát ý nghĩ sâu xa, xét chỗ hiểu biết của mình có điều gì nghi ngờ tùy ý hỏi, tôi sẽ mà giải thích cho Ngài.

Bồ Tát lại nói: Theo như lời nói của Tôn Giả, có khả năng tạo tác biến hóa ra thế gian là bậc tự tại.

Đối với vấn đề này tôi có nghi ngờ.

Tiên A La La nói: Theo ý Nhân Giả cho nghĩa này không đúng sao?

Bồ Tát lại nói: Tôi thấy không đúng!

Tiên A La La nói: Vì sao không đúng?

Bồ Tát lại nói: Lý do là tại sao nguyên nhân này chỉ có một?

Nếu như Trời Tự Tại biến hóa tạo tác ra thế gian, thì các pháp chẳng được theo thứ lớp cùng nhau phát sinh như trong hiện tại.

Vòng phiền não không nên theo thứ lớp như vậy mà chuyển. Lẽ ra tâm chúng sinh không cần ham lợi mà tự nhiên được lợi. Lẽ ra một chúng sinh không bị nhiều đau khổ.

Lẽ ra chúng sinh trong thế gian cúng dường Trời Tự Tại như cúng dường cha mẹ, ngoài ra Chư Thiên khác không được cúng dường.

Người bần cùng lẽ ra không được nói những lời hủy nhục của họ, vì nghiệp thiện ác đều do vị ấy, nên chúng sinh không cần nương tựa, không cần tìm cầu, không cần tạo tác. Người đời không cần suy nghĩ có Trời Tự Tại hay không có Trời Tự Tại.

Người đời phân biệt thế này: Nên có tạo tác hay không tạo tác?

Nếu không có tạo tác các nghiệp thì lẽ ra tự nhiên sẽ được quả báo. Trời Tự Tại do tu tập khổ hạnh để thành Tự tại.

Nếu chúng sinh thế gian cũng thực hành như vậy, thì tất cả chúng sinh đó cũng đều gọi Trời Tự Tại hay sao?

Nếu Trời Tự Tại vô nhân mà tự nhiên thành Trời Tự Tại. Như vậy chúng sinh khắp nơi cũng là Trời Tự Tại. Nếu chúng sinh không do tự tại kiến lập, thì không được gọi là có tự tại, đâu được gọi là Trời Tự Tại thành lập chúng sinh.

Tiên A La La tán thán Bồ Tát: Đại Đức Cù Đàm trí tuệ cao xa, tiếp nhận các luận, khéo trình bày rõ ràng. Nói tóm lại, toàn thể đều do trí lực phân biệt hiểu biết của Ngài, nên thấy con đường để thành tựu chân thật một cách bình đẳng.

Xin Ngài vì tôi trình bày, chớ nên từ nan lẫn tiếc pháp bảo.

Bồ Tát lại nói: Ta phải cúng dường Tôn Giả.

Tiên A La La nói: Tiên Nhân có nhiều hạng làm sao Nhân Giả cúng dường hết được. Nhưng ngày nay Nhân Giả đã là bậc Thượng Thủ, Ngài cũng nên nhận lãnh sự cúng dường của các Tiên Nhân.

Bồ Tát lại nói: Xin Tôn Giả vì ta giải thích ý nghĩa này.

Tiên A La La nói: Hàng Tiên Nhân thật ra hơn tất cả thế gian, nhưng trong số họ chưa hẳn đã sinh ra trước.

Nhân Giả có trí tuệ sâu xa, xin Ngài khéo tư duy: Nghiệp có trước hay thân có trước?

Bồ Tát hỏi: Nghĩa này như thế nào?

Tiên A La La nói: Vấn đề này rất nan giải! Tại sao?

Nếu nghiệp có trước chẳng phải thân có trước, thì lẽ ra không thọ thân, thân không tạo nghiệp, mà nghiệp không tự sinh ra nghiệp, thì ai tạo ra nghiệp này?

Nếu thân có trước chẳng phải nghiệp có trước, thì không có nghiệp.

Nếu không có nghiệp, thì tại sao lại có chúng sinh do nghiệp thọ thân?

Cái gì có khả năng khai hóa thế gian, thì cái ấy không hư hoại, nhất định thường tồn, bị giữ mãi trong ba cõi.

Đó là nguồn gốc sinh ra chúng sinh, sinh ra tự thân. Nếu không do Trời Tự Tại sinh thì tất cả chúng sinh yêu mến sắc thân, tự nó sẽ đầy đủ. Nếu tự nó đầy đủ, thì đối với mọi nơi lẽ ra phải tự có.

Bồ Tát nói: Như người bệnh cầu lương y chữa trị, ta không vấn nạn nghĩa này nữa.

Lúc bây giờ có một Tiên Nhân khổ hạnh là đệ tử của Tiên A La La, bạch Bồ Tát: Hay thay Cù Đàm! Theo như lời nói của Tôn Sư tôi, xin không nên nạn vấn, như ý nghĩa của thầy tôi nói, hãy chấp nhận không nên tranh cãi vì việc làm như vậy không có lợi ích.

Nhân Giả nên nhận lãnh lời Tôn Sư tôi.

Bồ Tát lại nói: Ta chẳng vấn nạn làm gì, chỉ muốn hỏi giáo pháp ấy truyền thừa ấy nguồn gốc như thế nào để biết sự thật.

Tiên Nhân khổ hạnh nói: Nhân Giả tùy nhân duyên mà thọ lãnh giáo pháp ấy, sẽ chứng được chân lý.

Nếu nghi ngờ giáo pháp và tranh luận, thật là phi pháp, vị lai sẽ mắc tội.

Khi ấy vị Tiên khổ hạnh, đệ tử của A La La nói kệ:

Phàm người thưa hỏi, khi nghe pháp

Tâm ý không loạn nghĩa mới thông

Nếu như nghi ngờ lòng chê trách

Đó là soi mói cạnh tranh nhau.

Hai đàng tìm lỗi sinh oán hận

Tức giận hơn thua lời nói xấu

Người trí muốn trừ lỗi khẩu nghiệp

Nói lý, không ý tranh hơn thua

Nghị luận muốn hơn gọi là tham

Tranh danh, sĩ nhục hạ đối phương

Nhiều lời chỉ trích, thành lỗi lớn

Dua nịnh nghe theo, sinh kiêu hãnh.

Sân tâm ngã mạn, tội chướng tăng

Hủy báng cùng nhau tranh phải trái,

Điều phải chẳng làm, làm điều trái

Tranh cãi với nhau thành oán hận.

Bấy giờ Bồ Tát nghe kệ này rồi, nói với vị Tiên khổ hạnh: Đúng vậy! Lỗi của sự tranh cãi không thể nói hết.

Nhưng ta chỉ muốn tìm nguồn gốc truyền trao của việc thành tựu như thế nào, chứ không phải tranh cãi tận cùng.

Khi Bồ Tát nói như vậy, Tiên Nhân khổ hạnh vẫn chưa vừa ý.

Tiên A La La nói: Đại Đức Cù Đàm, đối với con đường giải thoát này Ngài chẳng thích sao?

Giáo pháp như đây là tùy duyên không có nguồn gốc?

Bồ Tát đáp: Khi muốn cầu quả giải thoát phải tìm hiểu như thế?

Lúc ấy vị đệ tử của Tiên Nhân A La La lại nói: Thưa Sa Môn Cù Đàm, Nhân Giả cầu quả giải thoát mà bỏ giáo pháp chúng tôi, chỉ nhọc thân vô ích mà thôi!

Bồ Tát đáp: Người cầu cái vui vô thường ở thế gian còn khó, huống gì cầu giải thoát không trở lại!

Vị đệ tử của Tiên Nhân A La La lại bạch: Nhân Giả nói không trở lại, vậy là thường đi mãi.

Bồ Tát đáp: Nơi ta đi đến theo ý muốn, nay đã đạt được thì trở lại làm gì?

Tiên A La La nói: Không đi đến chỗ kia mà cũng chẳng trở lại chỗ này, thì không được hay sao?

Bồ Tát nói: Việc như vậy thật là hy hữu!

Tôn Giả trước có nói: Có thọ lấy đời sau.

Sau bây giờ lại nói không trở lại?

Tiên A La La đáp: Thật đúng như lời Nhân Giả nói, thật là quá hy hữu! Thể chân như tịch tĩnh, không bắt đầu, không kết thúc, không có giới hạn, không trước không sau, đi không xác định hoạt động, hình thể không cùng tận. Nhưng do vị thầy vô tướng, ông chủ thiền định tạo ra. Đó là Đại Phạm Thiên.

Bồ Tát lại nói: Ta xin hỏi Đại Tiên Tôn Giả, đến kiếp hoại tất cả vạn vật trên Cõi Đại Địa này như rừng rú, núi Tu Di cho đến cung điện Trời Đế Thích, tất cả đều bị kiếp hỏa đốt cháy.

Lúc đó Cõi Trời Đại Phạm ở chỗ nào?

Là gì?

Tên gì?

Làm sao có nói năng?

Quả báo công đức làm sao tồn tại?

Làm sao khi kiếp hoại vạn vật đều bị tiêu diệt, tại sao Trời Đại Phạm không bị thiêu đốt?

Lúc bấy giờ Tiên A La La cười nhạt lặng thinh, nhưng đệ tử của vị ấy lại bạch Bồ Tát: Nhân Giả là bậc trí tuệ hơn hết, tại sao Nhân Giả không biết chư Tiên trong quá khứ đã chứng được Thánh đạo hay sao?

Các Tôn Giả Tiên Nhân đó là: Ba La Xa La, Phả La Đọa A Tu Lê Da, Bạt Đà Na, Ca Đố Bà Đà Na, Đà Na Đạt Đa, Đạt Lợi Đa Na Da, Bàn Giá La Ba Để, A Sa Đà, Bạt Ma Đạt Đa, Na Hầu Vương Tử Da Da Để, Thiều Ba Lê, Ba La Bà Giá Na, Tỳ Đề A, Xà Na Ca, A Bàn Để Quốc La Để Đề Bà, Xà Kỳ Xa Tỳ Da, Đề Tỳ La, Tỳ Đà Ha Tỳ Da, Bà Nô, Đề Bà Da Na, Nê Sa Đa Na Da, Da Nhã Da Na, Ni Da Bạt Đô, Ha Lê Để, Bạt Xa La Bà Hầu. Tất cả các Tiên Nhân như vậy, vào trong ánh sáng Mặt Trời mà chứng Thánh Đạo.

Lúc bấy giờ Bồ Tát bảo Tiên Nhân: Nay người nói vào trong ánh sáng mặt trời cầu giải thoát.

Nghĩa này như thế nào?

Vậy ta nên lễ bái các vị ấy, nhưng thật ra ta không chấp nhận sự tự tại như thế.

Khi Bồ Tát nói lời ấy rồi, trong tâm suy nghĩ: Giáo pháp của Tiên A La La không phải là giáo pháp rốt ráo, nên tâm Ngài chẳng vui.

Vị đệ tử của Tiên A La La đoán được ý Bồ Tát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Bồ Tát: Ngày nay Nhân Giả đã vượt ra ngoài giáo pháp này, ý lại muốn cầu pháp giải thoát hơn nữa.

Bồ Tát đáp:

Ý ta nguyện muốn chứng được pháp như thế này: Không phải đất, không phải nước, không phải lửa, không phải gió, không phải hư không, không phải sắc, không phải thanh, không phải hương vị, không phải xúc, không phải tướng, không an vui, không sợ sệt, không chết, không bệnh, không già, không sinh, không phải có, không phải là không có, không thường, không phải không thường, không dùng ngôn ngữ diễn tả, không có giới hạn.

Rồi Ngài nói kệ:

Không còn lỗi sinh, già, bệnh, chết

Không đất, nước, gió, lửa và không

Vượt khỏi ba cõi không thầy dạy

Thường tịnh tự nhiên được giải thoát.

Khi Tiên A La La nghe kệ rồi, lại bạch Bồ Tát: Thưa Nhân Giả Cù Đàm, ngày nay bao nhiêu pháp tôi tự chứng, đối với người khác tôi đã trình bày một cách rõ ràng. Ngày nay, Nhân Giả cũng chứng được pháp này, đối với người khác trình bày pháp ta đã chứng.

Nhân Giả đã chứng được cũng có thể làm thầy trong đại chúng này như ta đang làm thầy trong đại chúng này vậy. Cù Đàm ngày nay có thể cùng ta đồng tâm, hai chúng ta lãnh đạo đại chúng này, giáo hóa chỉ dạy họ.

Lúc bấy giờ Tiên A La La tuy ở địa vị thầy nhưng đối xử với Bồ Tát một cách bình đẳng, tự phân nửa tòa ngồi cho Bồ Tát, cúng dường Bồ Tát, tùy theo nhu cầu của Bồ Tát, Tiên A La La cung cấp một cách đầy đủ, hết sức lấy làm vui mừng, vô cùng sung sướng tràn ngập châu thân không thể tự chế.

Lúc ấy Bồ Tát tự suy nghĩ: Giáo pháp này không thể đưa người đạt đến Niết Bàn, cũng không xa lìa các dục vọng vượt khỏi phiền não, cũng không phải thiền định tịch tịnh, diệt hết các lậu, chứng thần thông, lại cũng không tự giác ngộ và giác ngộ cho người khác thực hiện hạnh Sa Môn, chẳng có thể diệt trừ các phiền não ác.

Tại sao?

Tu pháp này, chỉ sinh lên Cõi Phi Tưởng để rồi lại tạo nghiệp. Nên biết pháp này chẳng là đạo quả cùng cực rốt ráo. Suy nghĩ như vậy, Bồ Tát liền từ biệt Tiên A La La mà ra đi.

Có kệ:

Bồ Tát suy nghĩ các pháp này

Trong tâm không thể hoan hỷ lắm

Biết chẳng vượt đến chỗ cứu cánh

Từ giã Lala đi tầm đạo.

Lúc bấy giờ đồ chúng của vị Tiên A La La nói lời tạm biệt cùng chia tay Bồ Tát: Cầu nguyện Nhân Giả, nơi nào Ngài đi đến luôn luôn được mọi sự an lành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần