Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm Khuyên Hưởng Thọ Dục Lạc Thế Gian - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM HAI MƯƠI TÁM

PHẨM KHUYÊN

HƯỞNG THỌ DỤC LẠC THẾ GIAN  

PHẦN HAI  

Lại nữa như đôi cánh tay khỏe của nhân giả phải dùng vào việc cung tên, đâu được bỏ uổng một đời như vậy. Thuở xưa, Vua Đảnh Sinh dùng sức dũng kiện của mình cai trị bốn châu thiên hạ cho đến cung Trời Đao Lợi. Ngày nay nhân giả phải đảm trách việc như vậy.

Tại sao?

Ngày nay tôi vì thương xót tất cả dân chúng mà mời thỉnh Ngài như vậy, tôi cũng chẳng lấy tư cách Vua chúa mà ân cần khuyên thỉnh.

Tôi thấy thân hình nhân giả đoan trang mà thương tiếc buồn bã rơi lệ, không nỡ làm thinh, nên tâm thán phục càng tăng bội phần, do đó mới ân cần chịu khó mời thỉnh như vậy.

Ngày nay nhân giả đang độ sức khỏe dồi dào, nên ở thế gian hưởng dục, chờ đến tuổi già sức yếu, chừng đó mới xả tục xuất gia.

Lại nữa, thưa nhân giả, Tổ Tiên từ trước đến giờ đều theo hoàng tộc của mình, đến khi tuổi già mới đem việc quốc gia trao lại cho Thái Tử hoặc Đại Thần.

Sau đó, xả bỏ vương vị, xuất gia vào núi tu tập. Lại nữa, thưa nhân giả, chư Tiên Nhân đời trước có dạy rằng phàm con người lúc thiếu niên phải thọ hưởng dục lạc, đến lúc trung niên nên kinh doanh sự nghiệp cầu tiền tài để sống, đến khi già yếu mới xả bỏ tài sản giao lại cho con cái, rồi tu các pháp khổ hạnh.

Như vậy đối với mọi phương diện xã hội đều xây dựng chu toàn. Ngược lại người lúc niên thiếu không thọ dục lạc, lúc trung niên không xây dựng sự nghiệp, việc làm như vậy chính là oán thù của bản thân, cũng gọi là giặc.

Đến khi tuổi già, các căn suy yếu khó mà tiếp nhận dục lạc. Lại nữa, thưa nhân giả, giả sử thiếu thời muốn tu pháp khổ hạnh, cũng bị các căn đòi hỏi ngũ dục. Đến tuổi già trong tâm suy nghĩ muốn đoạn tuyệt các dục lạc, thì cũng dễ hộ trì các căn sinh tâm xấu hổ, ý mới được vắng lặng.

Lại nữa, thưa nhân giả, ở thế gian lúc thiếu niên chính là thời kỳ sung sức, không thể thấy đạo cao xa, sẽ có nhiều sự sai lầm. Đến tuổi trung niên, khí huyết dần dần suy yếu, thời kỳ phóng dật đã qua.

Như có người qua được cánh đồng hoang, đứng nghỉ, thở than: Ta đã vượt qua cánh đồng này. Vậy ngày nay nhân giả đang độ thanh xuân, chính là lúc hưởng thụ, nguyện xin nhân giả tùy ý nhiều ít nên thọ dục.

Lại nữa, thưa nhân giả, thuở thiếu niên các căn khó điều phục nếu nhân giả muốn thực hành các Pháp Sự, ưa mến các pháp hạnh, phải theo pháp nhà Ngài, cúng tế Chư Thiên. Nhờ sự cúng tế đó cũng được sinh lên Trời. Nhân giả ở trong nhà dùng vàng, bạc, ngọc ngà quý giá trang sức nơi thân và hai tay, các vật quý tỏa ánh sáng như ngọn đèn.

Lại nữa, thưa nhân giả, các Vua đời xưa đầu đội mão báu, thân thể trang sức, thường ở trong cung cúng tế Chư Thiên, hành các pháp hạnh, lập hội vô già rồi mới vào trong núi tu các pháp Đại Tiên để cầu quả giải thoát.

Ngày nay nhân giả nên học các vị Vua ấy, làm theo mỗi độ tuổi. Vua nước Ma Già dùng đủ cách đem những lời ủy dụ như vậy, muốn khuyến thỉnh Bồ Tát hoàn tục.

Nghe Vua nước Ma Già khuyến thỉnh, Ngài không biến đổi sợ sệt, thân tâm không lay động vắng lặng an trụ như núi Tu Di, không sinh ý tưởng gì khác, thu nhiếp các căn, ba nghiệp thanh tịnh.

Có bài kệ:

Vua Ma Già Đà khuyên Bồ Tát

Như tình bằng hữu trao điều lợi

Bồ Tát bằng ba nghiệp thanh tịnh

Đáp lại như sen không thấm nước.

Bồ Tát bảo: Này Đại Vương nước Ma Già Đà, Ngài nói ra những lời bất thiện, lời đó giống như lời của kẻ vô trí, chẳng xứng đáng lời nói mẫu mực của bậc Đại Vương trong thiên hạ.

Nếu Đại Vương có tâm chân thật đối với ta, dầu lời nói thành thật đó cũng không lợi ích, cũng chẳng phải thương mến ta, đối với ta thật tổn hại.

Người ác ở đời không có từ tâm, cũng giống như người phú quý mà khiếp nhược. Nếu muốn làm lợi ích thế gian, cần phải chỉ dạy những gì thu thập từ quá khứ mới là bằng hữu, mới là giúp đỡ họ phát đạt.

Phàm người thấy bạn bè gặp hoạn nạn chẳng rời nhau, đồng tâm hợp lực bên nhau, mới gọi là quen biết. Ta cho rằng, khi phú quý sao lại không thể làm bằng hữu tri thức! Người nào khi được tài sản, theo pháp phân chia cho bạn không mất mát thì gọi là bạn thân.

Người ấy có thể dùng tài sản lâu dài. Khi dạy bảo nhau, họ không chịu nghe lời hoặc vì nghiệp từ trước mà bị mất tài sản thì sau ta cũng không hối hận. Như Nhà Vua ngày nay cùng ta kết giao là tri thức, thật sự có tâm ái kính ta, đem những việc như vậy chỉ bảo ta. Ta có thể tán đồng hay không tán đồng ý kiến của Nhà Vua.

Bồ Tát nói lời như vậy, lại bảo Nhà Vua: Đại Vương phải biết, ta cầu đạo là sợ cảnh sinh già bệnh chết, cầu pháp giải thoát nên chọn lấy cuộc sống thế này. Thân tộc quyến thuộc thật rất yêu mến ái kính, khó xa lìa họ. Họ khóc kể ảo não nước mắt tràn ngập mặt mày, hoặc vì ta mà bỏ mạng.

Ta bỏ tất cả đi đến đây, vì biết việc tham đắm ngũ dục thế gian là nguyên nhân của nhiều điều bất thiện. Lại nữa, này Đại Vương, ta thật chẳng sợ rắn độc, cũng không sợ sấm sét của thiên lôi, cũng không sợ trận hỏa hoạn bị cuồng phong thổi cháy dữ dội thiêu đốt cả đồng nội ao hồ, chỉ sợ cảnh ngũ dục bức xúc thân tâm.

Vì sao?

Đại Vương phải biết cảnh ngũ dục vô thường cũng như giặc dữ cướp tất cả công đức, giả dối không thật như trò ảo thuật hiện trong thế gian, nó mê hoặc người đời cho là sự thật. Người ngu si không biết nên say đắm. Huống chi chính mình thọ hưởng ngũ dục.

Bồ Tát nói kệ:

Ngũ dục vô thường cướp công đức

Sáu trần như huyễn hại chúng sinh,

Dối gạt người đời mắc quả báo

Bậc trí sao lại sống với chúng.

Vô trí Thiên Đường không thỏa mãn

Huống ở nhân gian lại vừa lòng

Đam mê dục nhiễm nào có biết

Đâu khác lửa hồng đốt cỏ khô!

Chuyển luân thuở trước hiệu Đảnh Sinh

Cai trị bốn châu ngồi xe báu

Được Đế Thích ngồi chung nửa tòa

Bỗng khởi lòng tham liền đọa lạc.

Dầu làm bá chủ đại địa này

Tham tâm vẫn muốn tìm thuộc địa

Hưởng dục người đời nào biết chán

Ví như biển cả nhận nước sông.

Bồ Tát nói kệ rồi lại bảo: Đại Vương phải biết, thuở xưa có một vị Chuyển Luân Thánh Vương tên Na Hầu Sa, thống lãnh bốn châu thiên hạ cho đến cung Trời Đao Lợi, giáo hóa cả nhân thiên, nhưng lòng tham vô đáy, do vậy mà đọa lạc trong nhân gian.

Lại nữa, này Đại Vương, có Chuyển Luân Thánh Vương tên Y La cai trị bốn châu thiên hạ cho đến cung Trời Đao Lợi, nhưng lòng tham muốn vô độ, nên bị chết.

Lại nữa, này Đại Vương, Vua A Tu La Bà Lê sau khi lên ngôi Vua, lúc cùng Đế Thích chiến đấu bị thua, Đế Thích chiến thắng chiếm đoạt Sơn Hà.

Rồi Đế Thích lại bị Vua Na Hầu Sa chiếm đoạt. Na Hầu Sa Vương sau lại bị Trời Đế Thích chiếm lại. Như vậy, cảnh giới Trời người luân phiên thay ngôi đổi chủ đều là vô thường, hễ ai có năng lực hơn thì sẽ làm chủ.

Như vậy người có trí hơn nên quán sát tư duy thế này: Cảnh giới vô thường thay đổi trong chốc lát làm sao tin được!

Chỉ có những vị Tiên Nhân ở trong rừng núi, ăn toàn hoa quả, rễ lá dược thảo, thân mặc vỏ cây hay da lông thú đã chết, thân thể ốm gầy chỉ còn da bọc xương, họ muốn vượt qua hết tất cả phiền não, thoát ly thế gian, cầu quả giải thoát Niết Bàn vô vi.

Còn ai buông lung bị ngũ dục ràng buộc, đọa lạc vào luân hồi. Thử hỏi, người trí ai lại tham đắm ngũ dục. Nếu say đắm ngũ dục là tự chuốc lấy oán thù vào mình.

Bồ Tát lại nói kệ:

Tiên Nhân ở động nơi rừng núi

Ăn quả uống nước mặc vỏ cây

Dầu tuy búi tóc thân gầy ốm

Mong cầu giải thoát lìa ái dục.

Nếu không tự chế hàng phục được

Cũng bị ngũ dục nó kéo lôi

Dục oán vô thường là thế ấy

Người trí chẳng nên dính mắc vào.

Bồ Tát nói kệ rồi, lại bảo: Đại Vương phải biết, chúng sinh ở trong cõi dục vì muốn thọ hưởng khoái lạc, mà tìm cảnh dục để hòa hợp, khi đã đạt cảnh dục rồi, lại không thỏa mãn.

Người vô trí thọ hưởng ngũ dục như vậy không nhàm chán, hiện tại bị khổ não vô cùng, trong tương lai sẽ bị tai ương hoạn nạn.

Bởi vậy người trí không mơ tưởng ái dục. Người trí thấy kẻ tạo nghiệp đen tối, thọ khổ vô cùng. Nếu muốn được an ổn không nên tạo nghiệp, không nên hưởng thọ dục lạc, cần phải xa tránh tất cả dục lạc.

Nếu có hội họp phải biết có ly biệt, buông lung tình dục thì tâm phóng dật, phóng dật tăng trưởng thì tạo các nghiệp bất thiện, kết quả của bất thiện là đọa vào địa ngục.

Trong quá khứ đã làm việc khổ lớn, hiện tại được các dục, sau khi được dục rồi phải cố gắng bảo vệ, nếu không bảo vệ được thì lại bị rơi mất.

Lại nữa, này Đại Vương, người trí đối với các ái dục ấy, tư duy thế này: Cảnh giới người Trời cũng giống như vật mình mượn kẻ khác, chẳng phải vật thường tồn của mình, vì lý do gì đem tâm tham đắm.

Tất cả quả báo cõi nhân thiên như sương trên cỏ, như đầu rắn độc, như đống xương trên bãi tha ma, lại như cục thịt đầu tiên nơi bào thai của người phụ nữ, như giấc chiêm bao, như trò ảo thuật, cũng như đống lửa.

Tất cả các cõi khổ não tai ương, không thật như vậy. Chúng sinh luôn luôn bị tất cả các thứ đó bức xúc khổ não. Nên người trí không đem tâm say đắm ái dục.

Lại nữa, này Đại Vương, như trong các luận có nói: Vào thời quá khứ ở thành Mị Thệ La có một ông Vua mù tên là Đầu đề lại tra, tuy mù mắt nhưng sinh hạ nhiều con, tất cả một trăm người con đều bậc tài trí. Riêng người em Nhà Vua có năm chục người con, anh em chú bác tổng cộng một trăm năm chục người.

Sau khi hai anh em Nhà Vua qua đời, các con của hai vị này muốn tranh ngôi Vua vì nhân duyên quả báo ái dục, nên sát hại lẫn nhau không còn một người.

Lại nữa, này Đại Vương, như khi khoảng đồng hoang ao hồ Đàn Trà Ca bị đốt cháy, các ác quỷ lại sát hại loài súc sinh.

Lại dưới núi Tu Di có hai anh em Tu La vì đồng yêu một mỹ nữ, hai người chiến đấu để giành mỹ nhân, cả hai đều bị thương vong.

Lại nữa, các lò súc sinh ở thế gian, trồng các trụ cây buộc vào đó đủ loại súc vật để cắt mổ. Các ái dục cũng như vậy, làm sao người trí có thể tham dục lạc cho được.

Rồi Ngài nói kệ:

Thuở xưa Tu La hai huynh đệ

Yêu một mỹ nữ giết hại nhau

Cốt nhục tương tàn vì háo sắc

Kẻ trí biết vậy chẳng đam mê.

Bồ Tát lại nói: Đại Vương phải biết, hoặc lại có người vì ham ngũ dục mong cầu sinh lên Trời hay sinh nhân gian, sau khi được sinh vào cõi đó rồi thì say mê ngũ dục, toàn thân như chìm vào nước sôi hay sa vào hầm lửa. Cảnh giới vô thường dốt gạt như vậy, cũng chỉ vì ngũ dục mà chuốc lấy oan nghiệp vào thân.

Làm sao đem tâm luyến ái cho được!

Rồi Ngài nói kệ:

Ngu si ái dục khiến bần cùng

Ràng buộc tan thương nhiều đau khổ

Trông mong nhớ dục mau thành việc

Nào biết cạn sức đời sau khổ.

Bồ Tát lại nói: Này Đại Vương nước Ma Già Đà, ta biết ngũ dục có tội lỗi đau khổ như vậy, nên Nhà Vua chẳng nên lấy ngũ dục mà khuyến dụ ta. Ta đang muốn đi trên con đường vô úy.

Nếu Đại Vương thật là bạn tốt với ta, thì đem những lời khuyến dụ thế này nói với ta: Mong rằng đại nguyện rộng lớn của nhân giả sớm thành tựu, nguyện sớm thoát khỏi phiền não.

Vì sao?

Vì ta chẳng bị nhiều người rượt đuổi, nên lánh vào trong rừng núi. Ta cũng chẳng phải bị địch trả thù hay truy lùng, ta chẳng phải bị người khác chiếm ngôi mà bỏ đi. Ta cũng chẳng phải cầu đạo như các Tiên Nhân đời xưa mà thoái chí trở về.

Thế nên, ta không thuận theo lời Đại Vương.

Lại nữa, này Đại Vương, như có người nắm đầu rắn độc vứt đi, có thể muốn bắt trở lại hay không?

Như ném đuốc lửa đang cháy vào tay, có nắm bắt lại không?

Cũng như vậy! Cũng như vậy! Ta đã bỏ ngũ dục, xuất gia rồi, mà trở lại thọ ngũ dục thì cũng như vậy.

Lại nữa, này Đại Vương, ví như người có đôi mắt sáng, không tốt đẹp hơn người mù mắt hay sao?

Ví như người không bị các việc ràng buộc, không tốt đẹp hơn người bị ràng buộc trong lao ngục hay sao?

Ví như người giàu có nhiều của cải, không tốt đẹp hơn người bần cùng đói lạnh ăn xin hay sao?

Ví như người thông minh trí tuệ, không tốt đẹp hơn người điên cuồng hay sao?

Nhưng những người ấy còn có chỗ đẹp chứ ta đã xa lìa ngũ dục, không một thứ nào ta có thể tham đắm.

Lại nữa, này Đại Vương, như lời Đại Vương đã nói: Ở lại nước ta thọ hưởng ngũ dục, tùy ý hoan lạc, ta sẽ cung cấp tiền của và thể nữ. Đại Vương biết cho, ta nay không chấp nhận ngũ dục thế gian như Ngài nói. Lại nữa, này Đại Vương, khi ta còn ở cung điện, có vô số ngũ dục, phải bỏ sáu vạn thể nữ, xuất gia vào rừng núi.

Đại Vương phải biết các thứ như vậy, có vô lượng vô biên tai ương nguy hiểm, lôi kéo chúng sinh vào trong địa ngục, còn dư báo thì làm loài súc sinh, ngạ quỷ, mất hết thiện căn, không phải là điều Thánh Nhân ca ngợi.

Lại nữa, này Đại Vương, các dục lạc thế gian giống như mây bay không một chút tạm dừng, như trận cuồng phong không bao giờ yên nghỉ, như tháo nước trên núi dồn dập cuốn trôi.

Lại nữa, này Đại Vương, người ngu si đam mê ngũ dục không biết giới hạn, trầm luân trong sinh tử bị phiền não trói buộc không thể ra khỏi, như lữ khách trên đường dài khôn khổ mỏi mệt, lại uống nước mặn càng uống càng khát. Đúng như vậy, người hưởng thụ năm dục, không biết sự nguy hiểm của nó cũng vậy.

Lại nữa, này Đại Vương, ta nói tóm lại: Nếu như có người đang hưởng ngũ dục cảnh Trời, cho đến cảnh dục tuyệt vời ở nhân gian. Với tất cả những thứ dục lạc vô cùng tốt đẹp như vậy, mà người ta thọ hưởng rồi thì không biết nhàm chán, tham dục càng thêm, sẽ tìm các thứ dục mới lạ khác.

Lại nữa, này Đại Vương, như lời Ngài nói ở trước: Cùng ta trị hóa nước Ma Già Đà, ta sẽ nhường lại nửa phần thiên hạ cho người cai trị, hoặc nhận lấy trọn ngôi Vua ta, ta đều hiến dâng tất cả và phục vụ cho Ngài, hoặc ta hưng binh mở mang bờ cõi khiến cho quốc gia thêm rộng lớn tươi đẹp phồn thịnh.

Này Đại Vương, ta đã từ bỏ bốn châu thiên hạ, phong phú đầy đủ không thiếu một thứ gì mà đi xuất gia, ngày nay đâu có thể lại tham đắm nhận lấy vương vị nhỏ bé của một tiểu quốc hay sao?

Lại nữa, này Đại Vương, như quả báo Sa Già Long vương ở nơi biển cả, được nước mênh mông, với cung điện rộng lớn đầy đủ bảy báu trang nghiêm, đâu có thể tham sống nơi nước lỗ chân trâu hay sao?

Đại Vương phải biết, đúng như vậy! Đúng như vậy! Ta đã phát tâm dũng mãnh, xả bỏ bốn châu thiên hạ cùng cung điện bảy báu cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, xuất gia vào rừng núi tu tập, mà ngày nay tham đắm vương vị thế gian thì cũng lại như vậy.

Bấy giờ Bồ Tát bảo Nhà Vua:

Như lời nói của Đại Vương: Nhân giả Tỳ Kheo thân thể mềm mại, chẳng nên ở trong rừng núi vắng vẻ hiu quạnh, nằm ngồi ngủ nghỉ trên thảm cỏ. Đại Vương phải biết, khi ta còn trong cung dùng các loại giường quý báu, mặc tình nằm ngồi trên đó, nay đã nhàm chán vứt bỏ đi xuất gia.

Tại sao như vậy?

Đại Vương nên biết, thân này yếu ớt suy thoái vô thường, không phải vật bền chắc, là pháp hoại diệt, có đó rồi bị vứt đi nơi nào đấy, giống như khối đất, như nhau không khác.

Lại nữa, này Đại Vương, như người có trí đã vất bỏ thây ma, có thể lượm lại hay không?

Nếu lấy trở lại, hoàn toàn không có việc như vậy.

Lại nữa, này Đại Vương, như lời nói của Ngài, nếu đối với ta có lòng thương mến thì nên tùy hỷ, chớ nên trách ta: Khất thực độ nhật, là việc chẳng nên làm.

Đại Vương nên biết, nếu thương mến ta, chớ có nói như thế!

Tại sao?

Vì nay ta muốn vượt qua biển khổ hoạn nạn sinh, già, bệnh, chết, mỗi bước đi vào đạo. Bởi vậy, ta chọn lấy đời sống Tỳ Kheo, vì muốn cầu quả tịch diệt an lạc, muốn đời vị lai diệt trừ tất cả hoạn nạn, cho nên cần phải mặc Ca Sa hoại sắc.

Đại Vương nên biết, nếu có người ở hiện tại được phước đức thọ quả báo ngũ dục, nên yêu mến say đắm, những hạng người này thật đáng thương xót.

Nếu có người trong đời hiện tại, không đạt được tâm tịch tĩnh an lạc, nhất định trong đời vị lai chịu các khổ báo. Những chúng sinh này thật đáng thương xót.

Lại nữa, này Đại Vương, ta nay kinh sợ các khổ của phiền não, nên xả tục xuất gia, muốn cầu Niết Bàn chân thật tịch tĩnh. Giả sử ta được cung Trời Đế Thích cũng chẳng ham muốn, huống là quả báo thấp hèn ở nhân gian.

Rồi Ngài nói kệ:

Ta bị trúng tên phiền não bắn

Cần tìm cao tịch diệt để trị

Ví dù có được cung Đế Thích

Ta cũng không ham huống vương vị.

Bồ Tát lại nói:

Đại Vương phải biết, như lời nói ở trước của Đại Vương: Phàm tất cả người thế gian sống phải thủ lợi thích hợp với ba độ tuổi. Theo ý ta xét thì, đó không phải là lợi ích chân thật.

Tại sao?

Vì cầu được nhiều tiền của, có được rồi một ngày kia cũng phải hết. Mong muốn thì thêm mong muốn, không khi nào biết đủ, cầu pháp mới là lợi ích chân thật. Pháp lợi có cạn sâu, tất cả có năm công đức, ta quyết phải tìm cầu.

Rồi Ngài nói kệ:

Sinh già bệnh chết nếu không còn

Chân thật trượng phu là thế ấy

Tình đời tham dục mưu tài lợi

Ta lìa tài sắc chỉ mong pháp.

Bồ Tát lại nói:

Đại Vương phải biết, theo lời nói ở trước của Đại Vương: Nhân Giả chưa đến tuổi già, chính đang độ thiếu niên, cần phải lãnh ngôi Vua trị vì thiên hạ, thọ hưởng thú vui ngũ dục. Ta chẳng phải vậy.

Vì sao?

Nếu thời thiếu niên luôn luôn như vậy, thì lẽ ra tất cả thiếu niên không già, lẽ ra tất cả chúng sinh ở mọi cảnh giới, thường xuyên không bị tử Thần lôi kéo nên tuổi thọ của chúng sinh không nhất định. Do vậy, người trí đã cầu pháp giải thoát tịch tĩnh, chẳng nên thọ lãnh ngôi Vua vui chơi ngũ dục.

Do đó, trong tất cả ba giai đoạn thiếu niên, trung niên hoặc tuổi già chỉ cầu mong pháp giải thoát sớm thành tựu, như cầu giải thoát hay cầu thiền định, chẳng được trễ nải chần chừ, cần phải siêng năng tu tập, để sớm hoàn tất.

Lại nữa, này Đại Vương, như lời nói vừa rồi của Đại Vương: Nên theo pháp nhà thiết lễ cúng tế, lập hội bố thí, thì ở vị lai sẽ được các phước báo tùy theo ý muốn. Đại Vương phải biết, ta không cầu những thú vui như vậy. Nếu các khổ não đến bức xúc tha thiết cầu được sự an lạc thì không phải an lạc chân thật.

Kẻ phàm phu ở thế gian muốn cầu quả báo ở đời sau mà trong hiện tại giết hại các sinh mạng để cúng tế Chư Thiên, Thần lửa. Đây là điều vô cùng phi lý.

Tại sao phi lý?

Nếu người làm việc từ thiện, thì chẳng nên làm tổn hại đến tánh mạng sinh vật. Giả sử sát hại sinh vật để cúng tế Chư Thiên, Thần lửa, được quả báo an lạc, thường tồn thì cũng chẳng nên sát hại sinh mạng dùng vào việc cúng tế, huống nữa các quả báo an lạc đó đều là vô thường hư hoại, bị tận diệt, đâu phải là pháp chân thật.

Lại nữa, này Đại Vương, phàm người muốn thực hiện pháp giải thoát, thì không cầu tự lợi, dù không tu hành, dù không trì giới, dù không thiền định, cũng còn không nên tổn hại tánh mạng kẻ khác để cầu quả báo lợi ích đời vị lai. Các phàm phu tại thế gian đem việc sát sinh, giả sử có được quả báo an lạc, đó cũng là việc bất thiện.

Vì cớ sao?

Vì không có từ tâm, mà lại mong cầu đời vị lai được quả báo thiện, hoàn toàn không có việc như vậy.

Rồi Ngài nói kệ:

Giả sử người đời tại thế gian

Giết hại sinh mạng mong an lạc

Trí giả cho là điều bất thiện

Huống cầu đời sau được Trời người.

Lúc bấy giờ Vua Tần Đầu Sa La nước Ma Già Đà nghe Bồ Tát nói những lời như vậy, lấy làm ngạc nhiên, với điều chưa từng có, với lòng từ bi, ở trước Bồ Tát tán thán: Cao quý thay! Cao quý thay! Sa Môn Cù Đàm có công đức lớn, tu hành khổ hạnh khó tu, ở trong thế gian mà xả bỏ tất cả dục lạc.

Thưa nhân giả Tỳ Kheo, Ngài từ đâu bỗng nhiên xuất hiện đến đây?

Sinh quán nơi nào?

Thuộc dòng họ gì?

Quý danh của song thân là gì?

Danh Hiệu là chi?

Thưa thế rồi Đại Vương chí tâm lắng nghe.

Lúc ấy Bồ Tát chánh tâm nhìn thẳng, ôn tồn bảo: Đại Vương phải biết, cách đây về phương Bắc dưới chân Tuyết Sơn, có một vùng đất rộng lớn tên là Thích chủng, Kinh Đô của Thích chủng là Ca Tỳ Ca La Bà Tô Đô nhà Tùy dịch Huỳnh đầu cư xứ, Đại Vương cai trị thành này là Tịnh Phạn Vương, là Phụ Vương của ta, ta là con của Ngài. Mẫu hậu tên là Ma Da nhà Tùy dịch là Huyễn, còn tên ta là Tất Đạt Đa nhà Tùy dịch là Thành Lợi.

Vua Tần Đầu nghe Bồ Tát nói những lời như vậy, buồn bã khóc lóc rơi lệ giây lâu, rồi gạt lệ tâu: Tỳ Kheo thật hy hữu, đã sinh trong nhà đại tộc, làm sao đi đứng sống một mình trong rừng thú dữ độc hại, không an ổn đáng sợ hãi này.

Rừng này không tốt lại vui sống một mình, không có bạn hữu, làm sao Ngài có thể đi đứng, nằm ngồi an toàn cho được!

Bồ Tát bảo Vua Tần Đầu: Này Đại Vương, Ngài phải biết, ta nay đối với các loài cầm thú độc hại, không kinh hãi sợ sệt, dầu chúng có đến đây cũng không động một sợi lông của ta.

Đại Vương phải biết, ta nay chỉ sợ sinh già bệnh chết đến đây bức xúc ta, ngoài ra đối với các loài ác thú trong rừng ta không kinh sợ. ta sống một mình không có bạn bè mà tự an vui. Đại Vương phải biết, cảnh già thật đáng sợ.

Lý do vì sao?

Vì khi cảnh già đến, nó cướp mất sức cường tráng khỏe mạnh của thời thiếu niên, thân hình khô gầy, lưng còm không thể đi được. Thử hỏi ai muốn thấy cảnh như vậy.

Đó là điều thật đáng sợ. Lại nữa, này Đại Vương, bệnh hoạn nó đến, đó là điều đáng sợ.

Lý do tại sao?

Đang khi khỏe mạng mà bất chợt mai chiều lâm bệnh, đau nhức trằn trọc rên rỉ, khi khỏe mạnh sắc diện như hoa, sức lực dồi đào tươi thắm, bỗng nhiên tiều tụy, buồn phiền khổ não, nằm ngồi ngủ nghỉ chẳng an, đang lúc này có ai thay thế được cho ta?

Nằm trên giường gối, sức không theo ý muôn. Do vì vậy, bệnh là điều thật đáng sợ.

 Lại nữa, này Đại Vương, chết là điều thật đáng sợ.

Tại sao?

Ngày chết đến làm giảm tuổi thọ của ta, bỗng nhiên đến cướp đi sự sống, tuy có sức thống trị bốn châu thiên hạ, có kim luân đánh dẹp giặc thù, có bảy báu hướng đạo, có dao bén binh hùng cũng không thể ngăn chận được, khi bị nó tranh giành cướp đoạt. Vì lý do này, chết là điều con người thật lấy làm đáng sợ.

Lúc ấy Vua Tần Đầu Sa La lại hỏi Bồ Tát: Thưa Đại Thánh Thái Tử, Ngài đang cần thứ gì?

Bồ Tát trả lời: Này Đại Vương nước Ma Già, ta chỉ cầu quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Sau khi chứng quả rồi ta sẽ chuyển pháp luân vô thượng. Ta chỉ cầu mong như vậy mà thôi.

Vua Tần Đầu lại bạch Bồ Tát: Thưa Đại Thánh Thái Tử, theo tôi nhận thấy tâm nhân giả dũng mãnh, siêng năng tinh tấn, quyết định sẽ chứng quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, hoàn toàn không có gì phải nghi ngờ và quyết định sẽ chuyển pháp luân vô thượng.

Hay thay Thái Tử, tôi được gặp nhân giả! Hay thay Thái Tử, tôi nghe được tên nhân giả!

Hay thay Thái Tử, nhân giả đã khéo xuất gia, nhân giả con dòng họ Thích, tôi từ nay sẽ luôn luôn phụng thờ nhân giả.

Thưa Đại Thánh Thái Tử, ngày nay tôi thỉnh nhân giả luôn luôn ngày nào cũng đến cung điện chúng tôi.

Tôi nguyện thường được gặp Ngài, bốn sự cần dùng của nhân giả tôi nguyện cúng dường không chút thiếu hụt.

Khi Vua Tần Đầu nói lời tán thán như vậy rồi, Bồ Tát bảo: Đại Vương phải biết, ta nay chẳng bao lâu sẽ rời chỗ này đi đến các phương khác.

Đại Vương nghe Bồ Tát nói như vậy, chắp tay bạch: Thưa Đại Thánh nhân giả, mong rằng những sở nguyện gì của Ngài không bị các ma làm chướng ngại, những pháp giải thoát mà Ngài đang tìm sớm được thành tựu.

Thưa nhân giả họ Thích, mong rằng sau khi Ngài chứng được quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, tôi nguyện được thân cận nhân giả cung kính cúng dường. Gặp nhân giả rồi, liền đúng như pháp làm đệ tử Thanh Văn của Ngài.

Rồi Đại Vương nói kệ ca ngợi:

Ta, Tần Đầu chắp tay khen ngợi

Nguyện cầu Thái Tử mau thành đạo

Nếu đã thành tựu, Ngài nhớ lời

Rủ lòng từ bi thương chúng sinh.

Bồ Tát nghe kệ rồi, bảo Đại Vương: Hay thay lời nguyện của Đại Vương! Lời nguyện của ta và sự mong ước của Đại Vương cả hai đều tốt đẹp.

Vua Tần Đầu chắp tay nhất tâm đảnh lễ bạch Bồ Tát: Hay thay Thái Tử, Ngài có thể cho tôi sám hối, do tôi vô trí đã não loạn Đại Thánh. Thái Tử đã lìa ái dục nên cho ngũ dục là bất tịnh, còn tôi mang tâm ái nhiễm nên cho là trong sạch. Cúi xin Đại Thánh lượng thứ bỏ qua tội này.

Bồ Tát vui vẻ mỉm cười, bảo Vua Tần Đầu: Hay thay Đại Vương! Đúng như vậy. Ta nay thọ sự sám hối thanh tịnh của Đại Vương, nguyện Đại Vương được an lạc ít bệnh, ít buồn phiền, giữ gìn thân tâm chớ nên phóng dật, thường làm điều lành xa lánh điều ác.

Được như vậy Đại Vương sẽ an ổn, hưởng nhiều thiện lợi. Khi ấy vì quan tâm đến Vua Tần Đầu Sa La, Bồ Tát tùy căn cơ, y theo nghĩa lý các pháp tuyên dương giảng dạy khiến Nhà Vua hoan hỷ, rồi rời khỏi chỗ ngồi đi đến các nơi khác. Vua Tần Đầu đảnh lễ dưới hai chân Bồ Tát, nhiễu quanh ba vòng, rồi đứng yên nhìn về hướng Bồ Tát ra đi một lúc.

Sau đó, Nhà Vua rời núi Bàn Trà trở lại Hoàng Cung.

Có kệ:

Bồ Tát hứa với Vua Tần Đầu

Khi ta thành đạo sẽ độ Vua

Nghĩ về Đại Thánh, Vua hoan hỷ

Chốc lát rời non về nước mình.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần