Phật Thuyết Kinh Quán Tự Tại Bồ Tát Thuyết Phổ Hiền đà La Ni
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bất Không, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT
THUYẾT PHỔ HIỀN ĐÀ LA NI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bất Không, Đời Đường
Như vậy tôi nghe!
Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự trên núi Linh Thứu thuộc thành Vương Xá cùng với chúng Đại Bật Sô, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát gồm chín mươi chín câu đê chúng đến dự.
Bấy giờ, Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ ngồi trong Chúng Hội, đứng dậy bạch với Đức Phật rằng: Thế Tôn! Con muốn hiển nói về Phổ Hiền Đà La Ni.
Thế Tôn! Đà La Ni này là môn mà con đã được Đức Nguyệt Thượng Quang Như Lai trao truyền. Nếu người tu Bồ Tát Thừa vừa mới nghe qua Đà La Ni này liền được bất thoái chuyển, mau chóng thừa sự tất cả Đấng Như Lai Ứng Cúng Chính Biến Tri.
Hay tiêu diệt tất cả nghiệp chướng, đạt được sự an vui giàu có, thân được thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý được thanh tịnh, thông đạt tất cả biển Đại Bí Mật, hay mãn tất cả biển nguyện, liền thấy tất cả Như Lai.
Con do nghe Đà La Ni này liền chứng vô sinh pháp nhẫn, đắc được Lăng Nghiêm Tam Ma Địa, chứng được Bảo Ấn Tam Muội, Diễm Cự Đuốc lửa Tam Ma Địa, Hải Ấn Tam Ma Địa, Phổ Biến Hư Không Tam Ma Địa.
Chứng được hằng hà sa số môn Tam Ma Địa như vậy, lại được nghe tám vạn bốn ngàn tám mươi bốn ngàn Môn Đà La Ni của Vô Tận Khiếp Cái rương vô tận.
Do điều này được đủ tuệ đủ hạnh. Được trí tuệ như vậy, thành tựu pháp sở văn. Đối với pháp sở văn của Chư Phật thừa sự cúng dường không có gián đoạn. Nguyện xin Đức Thế Tôn hứa cho con vì bốn bộ chúng mà nói.
Đức Phật bảo: Hãy nghe ông diễn nói.
Bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát nhập vào Kim Cương Man Trà La Tam Ma Địa, liền nói Đà La Ni là:
Nẵng mô la đát nẵng đát la dã gia Nẵng mô a lị gia Phộc lô chỉ đế thấp phộc la gia Mạo địa tát đát phộc dã Ma Ha tát đát phộc dã Ma Ha ca lỗ ni ca dã Đát nễ dã tha Khư nga phệ, khư nga phệ, khư nga phệ Chước khuất sô khư phệ Truật lễ đát la khư phệ Già la noa khư phệ Nhĩ hạ phộc khư phệ Ca dã khư phệ Ma ná khư phệ Sa la khư phệ Phệ ma khư phệ Thú nhương khư phệ Nễ nhĩ đa khư phệ Bát la nê đà nẵng khư phệ Tam ma tha khư phệ Bá la nhĩ đa khư phệ Mạo địa khư phệ Sa la, sa la, sa la Tát phộc một đà địa sắt sỉ đế Bà la, bà la, bà la, đạt ma địa sắt sỉ đế Ca la, ca la, ca la, tăng già địa sắt sỉ đế.
Nẵng mô a lị dã phộc lộ chỉ đế thấp phộc la dã Mạo địa tát đát phộc dã Ma Ha tát đát phộc dã Ma Ha ca lô ni ca dã Nẵng mô nại phộc nẵng phộc để nam Mạo địa tát đát phộc cú đê nam A địa sắt sỉ đế đổ hàm A duật lật ma lại gia ná nan đổ Đát nễ dã tha Tô la tỵ, tô la tỵ Mẫu nễ, mẫu nễ, Ma Ha mẫu nễ Ma để, ma để Ma Ha ma để Nẵng mạc a lị dã phộc lộ chỉ đế thấp phộc la dã Mạo địa tát đát phộc dã Ma Ha tát đát phộc dã Ma Ha ca lô ni ca dã Tất điện đô Tam mãn đa bạt nại la Đà La ni sa phộc hạ.
Khi ấy, Quán Tự Tại Bồ Tát nói Đà La Ni này thì chín mươi hai câu đê Bồ Tát chứng được Thủ Lăng Nghiêm Tam Ma Địa, hằng hà sa số Bồ Tát chứng được Vi Diệu Đà La Ni Tam Ma Địa.
Nay Ta nói về công đức của Đà La ni này. Mỗi buổi sáng nên tụng Đà La Ni này một trăm lẻ tám biến, mãn hai mươi mốt ngày thì Quán Tự Tại Bồ Tát liền hiện thân đến, tất cả nguyện mong cầu đều được mãn túc.
Nếu có người bị tù tội, gông cùm, xiềng xích mà trì tụng bảy ngày liền được giải thoát.
Nếu có người bị bệnh sốt rét, tụng Chú này thổi vào tai bên trái thì liền khỏi bệnh.
Nếu có người bị trúng bệnh phong, tà mỵ thì lấy tô bơ dầu hòa với nhau, gia trì hai mươi mốt biến rồi uống vào, liền được khỏi bệnh.
Nếu có người bị đau răng thì gia trì vào Xỉ Mộc hai mươi mốt biến, khiến nhấm liền khỏi.
Nếu có người bị đau tai, lấy dầu của hạt Hoa Diệp bỏ vào trong vật khí bằng đồng nung nóng, gia trì bảy biến rồi nhỏ vào tai, liền khỏi bệnh.
Nếu bị đau đầu, đau dạ dày hay đau bụng . Gia trì vào bàn tay rồi xoa vỗ liền khỏi.
Nếu bị bệnh quỷ mỵ, kết Chú trên sợi chỉ gia trì một trăm lẻ tám biến, khiến đeo liền khỏi bệnh.
Nếu bị Noa Cát Nễ Ḍākiṇī: Chồn tinh, tinh linh sống nơi gò mả Mỵ, gia trì vào dầu bảy biến rồi bôi xoa lên các chi tiết, liền khỏi bệnh.
Nếu bị trúng tất cả bệnh, gia trì vào bàn tay hoặc cành Dương Liễu rồi xoa phủi, liền khỏi bệnh.
Các Pháp như trên tức chưa đạt công nghiệp mà chỉ tùy tụng liền có hiệu nghiệm.
Nếu muốn cầu thấy Phật Bồ Tát, chứng Đà La Ni Môn, Tam Ma Địa Môn, thành tựu Thần Thông, ẩn hình, thuốc An Thiện Na, Hùng Hoàng thì Hành Giả ở trước Tượng Phật hay Tháp Xá Lợi xoa lau Man Trà La. Treo phan, phướng, lọng. Rải mọi loại hoa. Đốt Đàn Hương, Trầm Thủy Hương, Huân Lục Hương. Thắp một trăm ngọn đèn sáng để cúng dường rộng lớn.
Người niệm tụng phải tắm gội sạch sẽ, thân mặc quần áo sạch, giữ gìn Phạm Hạnh, liền tụng Đà La Ni này:
Kết Phương Ngung Giới Đà La Ni là:
Nẵng mô la đát nẳng đát la dạ dã. Nẵng mạc a lị dã. Phộc lô chỉ đế thấp phộc la dã. Mạo địa tát đát phộc dã. Ma Ha tát đát phộc dã. Ma Ha ca lô ni ca dã.
Đá nễ dã tha: Chỉ lý,mãn đà ninh. Nhĩ lý, mãn đà nhĩ. Chỉ lý, nhĩ lý mãn đà nhĩ. Tỷ ma, mãn đà nhĩ. Tỷ ma minh. Yết thất chỉ ná để ngật la ma đổ. Sa phộc hạ.
Dùng Đà La Ni này gia trì vào nước hai mươi mốt biến, ở trong Đạo Trường rưới vảy mười phương. Liền thành Kết Giới.
Nay Ta nói về Nghinh Thỉnh Đà La Ni. Người hành Chân Ngôn trước tiên niệm tụng Đà La Ni này để Nghinh Thỉnh, sau đó niệm tụng.
Đà La Ni là:
Nẵng mô la đát nẵng đát la dạ dã. Nẵng mạc a lị dã phộc lô chỉ đế thấp phộc la dã. Mạo địa tát đát phộc dã. Ma Ha tát đát phộc dã. Ma Ha ca lô ni ca dã. Đát nễ dã tha: Chỉ lý, chỉ lý. Nhĩ lý, nhĩ lý. Chỉ lý lệ. Ế tứ Bà nga vãn. Nẵng lị dã.
Phộc lô chỉ đế thấp phộc la. Sa phộc hạ.
Đà La Ni này là Tâm Chân Ngôn của ta. Tụng Chân Ngôn này liền thành Thỉnh Triệu.
Hành Giả khởi thủ từ ngày mồng tám của tháng Bạch Nguyệt cho đến ngày mười năm. Một ngày ba thời, mỗi thời tụng một trăm lẻ tám biến. Ba thời tắm gội, ba thời thay áo.
Vào ngày thứ mười năm tác cúng dường rộng lớn, niệm tụng không có hạn định. Trong đêm của ngày đó, Quán Tự Tại Bồ Tát đi đến Đạo Trường hiện thân màu vàng ròng với tướng tốt đẹp đoan nghiêm, phóng ra trăm ngàn ánh sáng. Người trì tụng chẳng nên sợ hãi, cầu sinh tâm dũng kiện.
Vừa thấy Quán Tự Tại Bồ Tát liền được Địa Vị, chứng được Đà La Ni Tam Ma Địa. Liền thấy Đức A Súc Như Lai ở phương Đông, Đức Bảo Tràng Như Lai ở phương Nam, Đức Vô Lượng Thọ Như Lai ở phương Tây, Đức Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai ở phương Bắc.
Lại thấy vô lượng vị Như Lai ở mười phương thuộc Đẳng của bốn vị Như Lai trên có uy đức rộng lớn, nương theo lực đại bi của Chư Phật, trụ lâu ở thế gian. Từ đây cho đến khi mệnh chung thường sinh về Cõi Phật tịnh diệu, ở tất cả nơi đều cúng dường thừa sự Chư Phật Như Lai.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Kinh này xong thì chúng Bồ Tát Ma Ha Tát với hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Sát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân, Phi Nhân… đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nê Hoàn - Phẩm Mười Hai - Phẩm Bốn Pháp điên đảo
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tỳ Kheo - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thân Thứ
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Thiện Kiến Biến Hóa Văn Thù Sư Lợi Vấn Pháp
Phật Thuyết Kinh Nguyệt đăng Tam Muội - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Chư Thiên Khen Ngợi
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh ðoạn Giảm - Phần Bảy - Pháp Môn Giải Thoát