Phật Thuyết Kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân - Phần Mười Sáu
Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trí Nghiêm, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH
BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN
Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trí Nghiêm, Đời Đường
PHẦN MƯỜI SÁU
Không được bồ đề như
Tánh tướng ấy khó bàn
Không được tất cả pháp
Cho nên gọi Như Lai.
Đã đạt được không đắm
Không đắm như Như Lai
Không đắm tất cả pháp
Thông đạt đạo vô chấp,
Như Bậc Đạo Sư xưa
Thấy biết được chánh đạo
Tướng chân thật đạo này
Không hề có đầu cuối.
Kia cũng tu như vậy
Đạo tối thắng vô thượng
Đạo này không đầu cuối
Tánh không, không thật có.
Biết đạo không đầu, cuối
Các pháp đều bình đẳng
Đã biết như bình đẳng
Cho nên gọi Như Lai.
Đạo như, bồ đề như
Cùng với chẳng trụ như
Biết Như như hư không
Cho nên gọi Như Lai.
Các pháp ta đã nói
Như ấy thường bình đẳng
Nếu thấy được như thế
Phải nên cầu bồ đề.
A Nan! Do lẽ ấy
Bồ Tát đã nói thế
Tu hành đúng lời dạy
Kia cũng hành như vậy.
Nếu hành được hạnh ấy
Và nói được như thế
Rõ pháp không lui sụt
Các Bồ Tát không sợ.
A Nan! Nên biết rằng
Các Bồ Tát không sợ
Nên giảng nói như vậy
Tự nói là Như Lai.
A Nan bạch Phật: Do nhân duyên gì và đạt được những pháp gì mà được tôn xưng là Thế Tôn?
Bây giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Đều cùng nhất tâm nghe
Trong trăm ngàn ức kiếp
Cầu bồ đề như thế
Vô lượng, khó nghĩ bàn.
Cũng vì các chúng sinh
Cầu bồ đề như thế
Không hề có sợ hãi
Đó gọi là Thế Tôn.
Chẳng sợ hãi sinh tử
Chánh trụ sinh tử ấy
Hóa độ các chúng sinh
Nên gọi là Thế Tôn.
Nhờ đâu không Kinh sợ
Làm sao trụ sinh tử
Làm sao độ chúng sinh
Do đâu gọi Thế Tôn?
Sinh tử không có pháp
Mà có thể hủy diệt
Chẳng bền, chẳng hủy hoại
Dùng đó độ chúng sinh
Đó gọi là chẳng sợ
Đó gọi trụ sinh tử
Đó gọi độ chúng sinh
Đó gọi là Thế Tôn.
Biết các pháp hư vọng
Mà không tâm yếu hèn
Giảng nói tướng các pháp
Mà không hề sợ hãi
Đã dứt trừ sợ hãi
Xa lìa các chỗ nạn
Chẳng sợ các chỗ nạn
Độ chúng sinh chỗ nạn
Độ nhiều ức chúng sinh
Qua đường hiểm sinh tử
Cũng không có sinh tử
Và chúng sinh được độ.
Đặt các chúng sinh lên
Bờ Niết Bàn vắng lặng
Cũng không có chúng sinh
Đó gọi là Thế Tôn.
Thường vì các chúng sinh
Nói pháp như hư không
Không hề sinh sợ hãi
Nên gọi là Thế Tôn.
Pháp tánh không khác nhau
Nói có nhiều thứ tên
Bình đẳng như bồ đề
Bồ Đề không thật có,
Dạy, bảo cho muôn loài
Quy hướng về giác ngộ
Tuy dạy pháp như thế
Nhưng không hề có nói,
Không thể nói mà nói
Hóa độ nhiều chúng sinh
Không sợ, không chấp đắm
Nên gọi là Thế Tôn.
Xa lìa tất cả tưởng
Tu hành tưởng bồ đề
Đã dứt tất cả tưởng
Đó gọi là Thế Tôn.
Đã diệt hết các tưởng
Phiền não không còn thừa
Do đó nên được xưng
Gọi là Bậc Thế Tôn.
Dùng tuệ quán các pháp
Biết các pháp bình đẳng
Nên chẳng cầu pháp nhỏ
Đó gọi là Thế Tôn.
Chẳng coi trọng tiếng khen
Cũng chẳng mong được khen
Thường vì các chúng sinh
Nói pháp lìa khen ngợi.
Bồ đề lìa khen ngợi
Kia cũng cầu như vậy
Nếu coi trọng tiếng khen
Đó là xa bồ đề.
Thanh ấy như tiếng vang
Phân biệt nên nhiều loại
Sinh ra các phân biệt
Ta có tên như thế.
Không đắm tất cả tiếng
Cũng chẳng nương dựa tên
Bồ đề dứt đùa bỡn
Đó gọi là Thế Tôn.
Biết các pháp như vậy
Gọi đó là Thế Tôn
Cũng không có Bồ Tát
Nên gọi là Thế Tôn.
Biết các pháp như vậy
Mà không hề tham đắm
Cầu giác ngộ như thế
Giải thoát dứt hữu lậu.
A Nan do như vậy
Cùng các nhân duyên khác
Các vị Đại Bồ Tát
Xưng mình là Thế Tôn.
A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì và đạt được các pháp gì mà được tôn xưng là Phật?
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Biết rõ tất cả pháp
Pháp này không thật có
Đã biết không có pháp
Cho nên gọi là Phật.
Biết rõ các phiền não
Khiến người chẳng tự tại
Dùng trí dứt phiền não
Cho nên gọi là Phật.
Giác biết thân này không
Thân ấy không lệ thuộc
Cũng chẳng hề bền chắc
Không thể được bền chắc
Kẻ đối thân không chắc
Mà cho là bền chắc
Kia hiểu biết như thật
Cho nên gọi là Phật.
Biết vô minh, không trí
Tự tánh không thật có
Đã chứng được trí sáng
Cho nên gọi là Phật.
Tất cả tưởng quá khứ
Biết rõ là vô tưởng
Biết tưởng là vô tướng
Lại không theo tướng ấy
Tu các tưởng vị lai
Hiện tại cũng như thế
Đã tu tất cả tưởng
Thế nên gọi là Phật
Biết rõ sắc đời trước
Không hề có sinh khởi
Phàm phu tuy phân biệt
Không thể khiến sắc sinh.
Biết thọ không gốc rễ
Gốc rễ không thật có
Đối với tất cả pháp
Cũng không có người thọ
Biết tưởng giống như huyễn
Tánh ấy không thật có
Đối với tất cả pháp
Không bị tưởng làm lụy.
Biết hành không thể làm
Ra các thứ thân tướng
Thân không, hành cũng không
Cho nên không làm ra.
Biết hành cùng với thân
Cũng giống như cây chuối
Biết rõ được như thật
Cho nên gọi là Phật.
Quán thật tánh của thức
Cũng không ở trong thân
Mà cũng không ngoài thân
Nên biết có thức ấy.
Đối tất cả các pháp
Tánh thức không thật có
Mà ở trong thân này
Không thân, không nơi chốn
Biết được thức như vậy
Tánh thức không thật có.
Không tưởng, như hư không
Không hề thấy thức sinh.
Đối tất cả các pháp
Không có người thấy thức
Tánh tất cả chúng sinh
Chưa từng có tạo tác.
Chúng sinh không tạo tác
Các pháp rốt cũng vậy
Như pháp, như chúng sinh
Không có tướng đến, đi.
Biết tất cả các pháp
Rốt ráo đều không tướng
Không phân biệt, đùa bỡn
Cho nên gọi là Phật.
Như các Phật không trụ
Chánh pháp, đại thừa Phật
Không trụ tất cả pháp
Cho nên gọi là Phật.
Như như các pháp như
Các Phật không trụ như
Phật như, bồ đề như
Rốt ráo không thật có.
Vì mong cầu bồ đề
Nên phát tâm như vậy
Biết được tướng tâm này
Pháp nhỏ không thật có.
Vì mong cầu bồ đề
Nên phát tâm như vậy
Tâm bồ đề này thảy
Cũng biết rõ như huyễn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba