Phật Thuyết Kinh Quang Tán - Phẩm Ba - Phẩm Hành Không - Tập Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT KINH QUANG TÁN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẨM BA

PHẨM HÀNH KHÔNG  

TẬP BỐN  

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: đại khai sĩ hành như thế có thể đầy đủ sáu Độ vô cực, lợi ích dài lâu thì chỗ đạt đến, hay không chỗ đạt đến cũng không có thể tiện lợi.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Hoặc có đại khai sĩ trụ bát nhã Ba la mật vô cực, đầy đủ trí tuệ thông đạt, nhờ trí tuệ đó mà ý nghĩa của việc làm không bao giờ lệch lạc, cho đến khi đạt đến vô dư, mọi người thấy không ghét bỏ, cũng không nghèo thiếu, cũng không chết mà là thọ sắc thiện, sở dĩ chết là tự hủy hoại thân Trời, Người, A Tu Luân.

Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật: Cái gì là tuệ của đại khai sĩ?

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: đại khai sĩ đã dùng thừa tuệ thấy hằng hà sa Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ở phương Đông, nghe Kinh Pháp các Ngài thuyết và thấy Thánh Chúng, thấy cõi nước Chư Phật thanh tịnh và pháp thanh tịnh. Sở dĩ đại khai sĩ thuận theo tuệ ấy, không có tưởng Phật, không có tưởng khai sĩ, không có tưởng Thanh Văn, không có tưởng Duyên Giác, không vì thân mình mà có tưởng Cõi Phật.

Vì sao?

Vì đại khai sĩ hành Bố thí Ba la mật vô cực, mà không thủ đắc Bố thí Ba la mật vô cực.

Hành giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, bát nhã Ba la mật vô cực mà không thủ đắc giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, bát nhã Ba la mật vô cực, cho nên trí tuệ đạt được bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám Thánh Đạo, mười lực, bốn vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp bất cộng của Chư Phật. Đó là trí tuệ của đại khai sĩ. Do trí tuệ này đầy đủ tất cả căn bản Phật Pháp, đối với tất cả pháp cũng không nhớ nghĩ.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Bát nhã Ba la mật vô cực của đại khai sĩ làm thanh tịnh năm nhãn.

Những gì là năm nhãn?

Đó là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn.

Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật: Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là đại khai sĩ làm thanh tịnh nhục nhãn?

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Hoặc có đại khai sĩ dùng nhục nhãn thấy bốn ngàn dặm, hoặc có đại khai sĩ dùng nhục nhãn thấy tám ngàn dặm, hoặc có đại khai sĩ dùng nhục nhãn thấy cả cõi Diêm Phù Đề, hoặc có đại khai sĩ dùng nhục nhãn thấy cả hai Diêm Phù Đề.

Hoặc có đại khai sĩ dùng nhục nhãn thấy bốn thiên hạ, hoặc có đại khai sĩ dùng nhục nhãn thấy ngàn đại thiên Thế Giới, hoặc có đại khai sĩ dùng nhục nhãn thấy hai ngàn đại thiên Thế Giới, hoặc có đại khai sĩ dùng nhục nhãn thấy Tam Thiên đại thiên Thế Giới.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Đó là đại khai sĩ đã đắc nhục nhãn thanh tịnh.

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi: Thế nào là đại khai sĩ đắc thiên nhãn thanh tịnh?

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Cõi Trời bốn Đại Thiên Vương với thiên nhãn đều biết hết, Trời Đao Lợi, Trời Diệm, Trời Đâu Thuật, Trời Ni Ma La, Trời Ba la nimật, cho đến Trời A Ca Nị Tra, đại khai sĩ đều biết hết.

Thiên Nhãn của đại khai sĩ ấy, từ cõi Tứ Thiên Vương lên đến Cõi Trời A Ca Nị Tra, khai sĩ đều biết hết. Thiên nhãn của đại khai sĩ, dùng thiên nhãn này thấy chúng sinh trong hằng hà sa Cõi Phật ở phương Đông, sau trước đều biết hết, cho đến có thể thấy hết sự sinh tử của chúng sinh trong Thế Giới Chư Phật ở mười phương.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Đó là thiên nhãn thanh tịnh của đại khai sĩ.

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi: Kính bạch Thế Tôn, thế nào là Tuệ nhãn thanh tịnh của đại khai sĩ?

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Tuệ nhãn của đại khai sĩ không nghĩ pháp có sở hữu, hữu vi, vô vi, hữu hình, vô hình, pháp thế gian, độ pháp thế gian, hữu lậu, vô lậu. Tuệ nhãn của đại khai sĩ thấy các pháp, đều thấy nghe vô lượng, vô số. Đó là tuệ nhãn thanh tịnh của đại khai sĩ.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp nhãn thanh tịnh của đại khai sĩ?

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: đại khai sĩ dùng pháp nhãn phân biệt biết người nào hành tín, người nào hành pháp, người nào hành không, người nào hành vô tướng, người nào hành vô nguyện. Do môn giải thoát ấy mà đắc năm căn, đắc tam muội Vô kiến. Đã đắc tam muội Vô kiến rồi thì khởi phát bát nhã Ba la mật, đã đắc bát nhã Ba la mật thì đoạn ba kết.

Những gì là ba?

Một là tham thân, hai là hồ nghi, ba là hủy giới. Đó là ba kết. Có khả năng trừ tham thân, không có hồ nghi, không hủy cấm giới thì không có kết, không có kết là bậc Lưu bố, vị này được đi trên đường Thánh. Đoạn trừ dâm dục, sân hận, nộ si mỏng thì gọi là người Vãng hoàn. Do con đường Thánh này gia tăng siêng năng, dâm dục, sân hận, dâm, nộ, si dứt, gọi là Bậc Bất Hoàn.

Vị này ở trên đường thánh gia tăng siêng năng, ít sắc dục, không có sắc dục, vô minh, đoạn trừ, kiêu mạn, gọi là bậc Vô trước, là bậc hành không vậy. Hành môn giải thoát không mà đạt được năm căn, đạt tam muội Vô kiến thì dùng tam muội Vô kiến, hưng phát tuệ độ, đạt đến Duyên Giác. Vị này hành môn giải thoát Vô tướng đạt được năm căn. Nói tóm lại vị này đạt đến vô trước.

Đó là Pháp nhãn thanh tịnh của đại khai sĩ. Giả sử khai sĩ có thể phân biệt hiểu rõ, hễ pháp có hợp hội thì đều trở về không rốt ráo, đã thấy các pháp hoàn toàn không thì đắc năm căn. Đó là Pháp nhãn thanh tịnh của khai sĩ.

Lại nữa, Xá Lợi Phất! đại khai sĩ phân biệt như thế này: Đây là khai sĩ mới phát ý, hành bố thí Ba la mật vô cực, trì giới Ba la mật vô cực, Nhẫn độ vô cực, tinh tấn Ba la mật vô cực, Nhất tâm độ vô cực, bát nhã Ba la mật vô cực và hành tín căn.

Tinh tấn căn và căn đã hành đầy đủ phương tiện thiện xảo, thân mình thường trụ nơi căn bản thiện đức. Vị khai sĩ ấy sinh vào dòng dõi Quân Tử, Quý Tộc, Phạm Chí, Trưởng Giả, sinh lên Cõi Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, Trời Diệm, Trời Đâu Thuật, Trời Ni Ma La, Trời Ba La Ni Mật.

Sinh vào những Cõi Trời đó, ở nơi đâu cũng biểu hiện việc khai hóa chúng sinh, khiến cho quần manh đều nhập vào hạnh an lạc, làm thanh tịnh Cõi Phật, trực tiếp gặp Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác cúng dường phụng sự, không rơi vào địa Thanh Văn, Duyên Giác cho đến khi đạt đạo chánh chân vô thượng thành Tối Chánh Giác. Đó là pháp nhãn thanh tịnh của đại khai sĩ.

Lại nữa, Xá Lợi Phất! đại khai sĩ phân biệt thế này: khai sĩ nào đã được thọ ký đắc đạo Vô thượng thành Tối Chánh Giác, vị khai sĩ nào chưa được thọ ký đạo chánh chân vô thượng, vị khai sĩ nào không tạo lập gì, vị khai sĩ nào là không thoái chuyển, vị khai sĩ nào chẳng phải không thoái chuyển.

Vị khai sĩ nào đầy đủ thần thông, vị khai sĩ nào chưa đủ thần thông, vị khai sĩ nào đầy đủ thần thông đi đến hằng hà sa Cõi Phật ở phương Đông kính lễ chư Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác cúng dường phụng sự, vị khai sĩ nào chưa đắc thần thông, vị khai sĩ nào sẽ đắc thần thông.

Vị khai sĩ nào ở Cõi Phật có thể làm thanh tịnh, vị khai sĩ nào ở Cõi Phật không thể làm thanh tịnh, vị khai sĩ nào sẽ giáo hóa chúng sinh, vị khai sĩ nào không giáo hóa chúng sinh, vị khai sĩ nào được Chư Phật Thế Tôn khen ngợi, vị khai sĩ nào sẽ được Chư Phật Thế Tôn đứng gần ở trước.

Vị khai sĩ nào mà Chư Phật Thế Tôn không hiện ở trước, vị khai sĩ nào thọ mạng có hạn lượng, vị khai sĩ nào thọ mạng không hạn lượng, vị khai sĩ nào có chúng Tỳ Kheo có hạn lượng, vị khai sĩ nào có chúng Tỳ Kheo không hạn lượng, vị khai sĩ nào đắc đạo vô thượng chánh chân thành Tối Chánh Giác dùng chúng khai sĩ làm Tăng.

Vị khai sĩ nào khi làm Phật không có chúng khai sĩ, vị khai sĩ nào sẽ do hạnh cần khổ mà thành, vị khai sĩ nào sẽ rốt ráo chung thủy cùng tận, vị khai sĩ nào không rốt ráo chung thủy cùng tận, vị khai sĩ nào sẽ ngồi dưới cây Đạo Tràng, vị khai sĩ nào không ngồi dưới cây Đạo Tràng, vị khai sĩ nào sẽ có ma thử thách, vị khai sĩ nào không có ma thử thách, vị khai sĩ nào như vậy…

Này Xá Lợi Phất! Đó là Pháp nhãn thanh tịnh của đại khai sĩ.

Xá Lợi Phất bạch Phật: Thế nào là Phật nhãn thanh tịnh của đại khai sĩ?

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Cái nhân và đạo ý vô thượng mà đại khai sĩ đã dùng là chánh thọ tam muội Kim cang dụ, đầy đủ tất cả các tuệ thông đạt: Mười lực của Như Lai, bốn vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp bất cộng của Chư Phật, đại từ, đại bi, cho con mắt của đại khai sĩ thông đạt hết tất cả Phật Pháp, đối với tất cả Phật Pháp, không có pháp nào là không thấy, không có pháp nào là không nghe, không có hạn lượng, không có gì là không thông đạt.

Này Xá Lợi tử, khi đại khai sĩ đạt đến đạo vô thượng chánh chân thành Tối Chánh Giác mới có thể đầy đủ Phật nhãn thanh tịnh.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Như thế, đại khai sĩ muốn đắc năm nhãn phải phụng hành sáu Độ vô cực.

Vì sao?

Vì sáu Độ vô cực đều nhập vào tất cả các pháp đức thiện, đều hiểu rõ pháp Thanh Văn, pháp Duyên Giác, pháp khai sĩ.

Vì vậy, này Xá Lợi Phất! Hành giả hành pháp này, muốn đạt tâm bình đẳng phải gồm thâu tất cả các pháp, phải quán bát nhã Ba la mật vô cực. Bát nhã Ba la mật vô cực là mẹ của năm nhãn. Đại khai sĩ học năm nhãn đó để đạt đến đạo chánh chân vô thượng thành Tối Chánh Giác.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Hoặc có đại khai sĩ tu thần thông, đạt đến Độ vô cực, có vô số việc nhân duyên thần thông trụ ở cõi này, dùng một thân biến hóa biết bao nhiêu hình, rồi trở lại làm một thân. Khi ấy vượt qua sự cách ngăn của tường vách, đồi núi cao không chướng ngại như trong hư không, đi trong nước như đi trong mây.

Giống như chim bay trong bầu trời, vào ra đất không có kẻ hở như đi vào nước, đi trên nước như đi trên đất, thân tuôn ánh sáng như lửa lớn, oai thần lồng lộng của ánh sáng mặt trời, mặt trăng khó sánh kịp.

Dùng tay sờ Mặt Trời, mặt trăng và nắm bắt ánh sáng một cách tự tại, thân cao đến Trời Phạm không vì thần túc mà tự cao ngạo, ý không khinh mạn cũng không nhớ nghĩ đã sở đắc thần túc, cũng không kiêu mạn buông lung, khi khởi lên cũng không có tưởng, cũng không nhớ nghĩ, cái không tự nhiên hưng khởi.

Cái tự nhiên đó là tịch mịch. Cái Tự nhiên không đó cũng không có chỗ khởi. Lại như thế thì không phát thần túc và hạnh thần túc, chỉ có chuyên nghĩ các việc tuệ thông đạt. Đó là nguyên do chứng đắc thần túc tuệ độ vô cực của đại khai sĩ.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Thiên nhĩ thanh tịnh của đại khai sĩ ấy vượt qua tai của Trời người, nghe được tất cả các âm thanh của Trời người, mà cũng chẳng tưởng nghĩ về loại thiên nhĩ ấy, chẳng nghĩ rằng ta nghe tiếng, cũng không thủ đắc, cái không tự nhiên, tự nhiên vắng lặng.

Cái tự nhiên ấy không chỗ khởi, cũng không chỗ đắc, cũng không chỗ nghĩ, cũng không tự nghĩ là ta đắc thiên nhĩ, chỉ có chuyên nghĩ các việc thông đạt. Đó là đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực chứng đắc hạnh tuệ thần thông thiên nhĩ.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Vị khai sĩ ấy biết sự hướng đến hư, thật của tâm niệm các chúng sinh khác, là có tâm dục, không có tâm dục. Có tưởng dục, không có tưởng dục. Có tâm sân hận, lìa tâm sân hận. Có tưởng sân hận, lìa tưởng sân hận.

Có tâm ngu si, lìa tâm ngu si. Có tưởng ngu si, lìa tưởng ngu si. Có tâm ân ái, lìa tâm ân ái. Có sở thọ, không sở thọ. Hoặc đề cao, hoặc hạ thấp. Tâm vội vã, tâm an tường. Hoặc tâm rộng rãi, hoặc tâm nhỏ mọn. Hoặc tâm định, hoặc tâm bất định.

Hoặc tâm giải thoát, hoặc tâm không giải thoát. Tâm đã ô nhiễm, hay vừa, sẽ ô nhiễm. Tâm đã nhiễm tưởng, hay vừa, sẽ nhiễm tưởng. Như sự việc xét biết rõ ràng, phân biệt hư thật. Có tâm vô thượng thì nghĩ đến vô thượng, cũng không có sở niệm, cũng không có sở tưởng.

Vì sao?

Vì do sự phát khởi của các tâm vô tâm. Các tâm không nghĩ tưởng thì lại nhớ nghĩ đời sống quá khứ. Nhờ trí tuệ soi sáng nên bằng thần thông biết đời quá khứ, gọi là túc mạng, tuệ sở chứng minh thần thông túc mạng trí chứng thần thông.

Với loại thần thông này, một niệm biết sự việc trăm ngày, sự việc trăm tháng, sự việc trăm năm, sự việc một kiếp, trăm kiếp, vô số kiếp, vô số trăm kiếp, vô số ngàn kiếp, vô số ức trăm ngàn cai kiếp thảy đều nhớ biết tận nguồn gốc, ở chỗ nào tên là gì, thuộc chủng tánh nào.

Cuộc sống như vậy, ăn uống như vậy, sống lâu như thế, thọ mạng dài ngắn, khổ lạc, thiện ác, từ nơi kia chết sinh đến nơi nọ, chúng sinh này, chúng sinh kia đã nói như thế… khai sĩ có thể nhớ biết vô số đời sống quá khứ nhưng cũng không nghĩ tưởng thần thông đã chứng đắc.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: bát nhã Ba la mật vô cực của đại khai sĩ có khả năng nhớ biết như thế, đó là Túc mạng trí chứng thần thông. Đó là Hạnh tuệ thần thông.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Vị đại khai sĩ ấy dùng thiên nhãn thấy chúng sinh sinh tử, trước sau, căn lành, căn ác, điều họa, điều phúc, điều thiện, điều ác, hướng đến an lành, hướng đến khổ đau, vi diệu, ô uế, nguyên do tạo tác đều rõ biết hết. Thương những kẻ thân làm ác, miệng nói ác, tâm nghĩ ác, tạo đủ hạnh ác, bài báng Hiền Thánh, phụng sự tà kiến.

Do nhân duyên ấy khi tan thân mất mạng, hướng đến nơi khổ cực, đọa vào địa ngục. Hàng chúng sinh nhân từ, hiền thiện thì thân làm lành, miệng nói lành, tâm nghĩ lành, tạo đủ các hạnh tốt, không bài báng Hiền thánh, tuân phụng chánh kiến. Do duyên hạnh này cho nên khi thân hoại mạng chung, hướng đến nơi an ổn, sinh lên Cõi Trời.

Rồi lại nhìn thấy tám phương, trên, dưới. Rõ thật đáng thương những kẻ thân làm ác, miệng nói ác, tâm nghĩ ác, tạo đủ các hạnh ác, bài báng Hiền Thánh, phụng sự tà kiến. Do nhân duyên này, khi thân hoại mạng chung, hướng đến chỗ khổ cực, đọa vào địa ngục.

Nhưng hàng chúng sinh nhân từ hiền thiện thì thân làm lành, miệng nói lành, tâm nghĩ lành, tạo đủ các hạnh lành, không bài báng Thánh Hiền, tuân phụng chánh kiến. Do nhân duyên hạnh này, khi thân hoại mạng chung, hướng đến nơi an ổn, sinh lên Cõi Trời nhìn thấy tám phương, trên, dưới. Khi đã đạt thần thông thì tự nhiên nhìn thấy mười phương, không có gì ngăn che.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Vị đại khai sĩ ấy đã đạt đến chỗ biết tâm niệm của người một ngày, trăm ngày, một năm, trăm năm, một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp, ức kiếp, vô số kiếp, vô số ức ức trăm ngàn kiếp, cho đến vô hạn. Vô lượng tâm niệm chẳng thể kể xiết trong các Cõi Phật ở nơi mười phương Thế Giới, đều biết hết không ngăn che đó gọi là Túc mạng trí chứng thần thông biết tâm niệm người khác của Đại Bồ Tát.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Vị đại khai sĩ tự biết thân từ đâu đến một đời, trăm đời, ngàn đời, vạn ức đời, vô số ức đời, một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp, ức kiếp, vô số ức kiếp, thiện ác, họa phúc, chỗ thiện ác hướng đến, cha mẹ, anh em, dòng họ, vợ con, thế lực, tôn quý, giàu có, an vui, nghèo hèn, khốn khổ, ngu, trí, bế tắc, thông đạt, tên, dòng họ. Đó là Túc mạng trí chứng thông, biết thân từ đâu đến của đại khai sĩ, tự nhiên xem thấy năm đường trong mười phương không bị ngăn che.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: đại khai sĩ đạt lậu tận tuệ chứng thần thông không rơi vào địa Thanh Văn, Duyên Giác, cũng không tưởng nghĩ pháp khác, cũng không tưởng nghĩ ta sẽ đạt đạo chánh chân vô thượng thành Tối Chánh Giác, cũng không dựa vào tuệ thần thông lậu tận mà khởi niệm kiêu mạn, buông lung.

Nếu hiểu mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Chư Phật, mười hai nhân duyên không có cội gốc, ba mươi bảy phẩm không manh mối mà giáo hóa tất cả, thì này Xá Lợi Phất! Như vậy là đầy đủ thần thông bát nhã Ba la mật vô cực của đại khai sĩ, đã đầy đủ rồi thì có lợi ích lâu dài, mới đạt đến đạo chánh chân vô thượng thành Tối Chánh Giác.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Hoặc có đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực, trụ Bố thí Ba la mật vô cực, thấy có thể làm nghiêm tịnh các con đường thông suốt chân không cứu cánh. Từ sự hưng thọ đó mà hành ân đức.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Hoặc có đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực, trụ Trì giới Ba la mật vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn thông đạo chân không rốt ráo, điều không tin thì chẳng tin, việc không khởi thì chẳng khởi, hưng lập ý nghĩa vĩnh viễn không chỗ sinh.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Hoặc có đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực, trụ Nhẫn độ vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, hưng khởi nhẫn nhục, không có sân hận, hiểu rõ vốn không, tất cả đều không.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Hoặc có đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực, trụ tinh tấn Ba la mật vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, thân ý tinh tấn chuyên chú vào một nghĩa, việc thực hiện tinh tấn không có các lậu, hưng lập sự tinh tấn này.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Hoặc có đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực, trụ Nhất tâm độ vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, tâm ý không loạn động, không cao, không thấp, không khởi, không diệt, hưng lập thiền này.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Hoặc có đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực, trụ bát nhã Ba la mật vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, trừ tâm tà kiến, khuyến phát vô trí, hưng lập cái không cho.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Như vậy là đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực, trụ sáu pháp Ba la mật vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, đến hay không đến như không đến đi, cho không người nhận, không bố thí, không tham lam, không giới, không phạm, không nhẫn không giận, không tinh tấn, không biếng lười, không thiền không loạn, không trí không ngu, vật bố thí rồi, không nghĩ đến, cũng không tưởng nhớ, bố thí, tham lam.

Trì giới, phạm giới. Nhẫn nhục, sân hận. Tinh tấn, biếng lười. Nhất tâm, tán loạn. Trí tuệ, ngu si. Không nghĩ đến mắng nhiếc, chẳng nhớ đến khen ngợi, có làm việc gì cũng không nghĩ tưởng, không phát khởi, không sân hận, không nhục mạ, cũng không nghĩ tưởng lời lẽ đã nói, chẳng nghĩ có, cũng chẳng nghĩ không.

Đức Phật dạy: Này Xá Lợi Phất! đại khai sĩ ấy được tôn xưng là danh đức hành bát nhã Ba la mật vô cực. Thanh Văn, Duyên Giác không thể sánh kịp. khai sĩ đầy đủ những đức này rồi, giáo hóa chúng sinh, làm nghiêm tịnh Cõi Phật, hành đại từ, đại bi, đắc các tuệ thông đạo.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực, thường phát tâm bình đẳng hướng đến chúng sinh, đã có thể phát tâm bình đẳng hướng đến chúng sinh rồi thì đạt đến bình đẳng đối với các pháp, đã có thể đạt được sự bình đẳng đối với các pháp rồi thì có thể lập được sự bình đẳng với các chúng sinh.

Ngay tức khắc tất cả các pháp đều hiện hữu, được Chư Phật Thế Tôn nhìn thấy thương mến và các khai sĩ, tất cả Thanh Văn, Duyên Giác trông thấy khâm phục.

Lại nữa, những nơi sinh ra, mắt chưa từng thấy việc chẳng nên, tai chưa từng nghe tiếng ác, mũi chưa từng ngửi mùi hôi, miệng chưa từng nếm vị dở, thân không thô cứng, tâm không pháp tà. đại khai sĩ hành bát nhã Ba la mật vô cực có thể như thế thì không bao giờ quên mất đạo chánh chân vô thượng.

Khi Đức Phật nói về phẩm bát nhã Ba la mật vô cực này, có ba trăm vị Tỳ Kheo tu hành dùng anh lạc rải cúng dường Chư Phật, phát tâm đạo chánh chân vô thượng.

Bấy giờ Đức Phật mỉm cười. Hiền Giả A Nan liền rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay bạch Phật: Vì nhân duyên gì mà Ngài cười?

Đã cười thì chắc có ý!

Đức Phật bảo A Nan: Ba trăm Tỳ Kheo này sáu mươi mốt kiếp nữa sẽ đắc quả Phật, hiệu là Đại Anh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, thiện Thiện Thệ, Vô Thượng Sĩ, đạo pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Ở đây, họ mạng chung, sẽ thường sinh vào cõi nước của Đức A súc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.

Sáu vạn Trời Dục hành sẽ ở vào thời Phật Di Lặc Xuất Gia làm Sa Môn, thừa Thánh chỉ của Phật, vào thời đó, tìm thấy ngàn Phật du hành trong chúng sinh, tám phương, trên dưới cũng lại như vậy, đều thấy ngàn Phật và các cõi nước. Lại thấy Thế Giới Kham nhẫn này nghiêm tịnh không nhơ bẩn như Thế Giới của Chư Phật Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.

Khi ấy hàng vạn người đều tự phát nguyện: Hiện nay chúng con phát khởi ý muốn du hành nước Phật hiện tại.

Lúc đó, Đức Phật biết tâm niệm của các Thiện Nam Tử kia, lại mỉm cười.

Ngài A Nan lại quỳ xuống hỏi Đức Phật: Do nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười?

Ngài cười chắc chắn là có ý!

Đức Phật bảo A Nan: Hiện ông có thấy vạn người lập nguyện chăng?

Đáp: Dạ có!

Thế Tôn bảo: Vạn người này khi mạng chung sẽ sinh về nước Phật, họ chưa từng xa rời Chư Phật Như Lai, về sau đắc quả Phật, hiệu là Nghiêm Tịnh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần