Phật Thuyết Kinh Quang Tán - Phẩm Mười Ba - Phẩm đại Thừa
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH QUANG TÁN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM MƯỜI BA
PHẨM ĐẠI THỪA
Khi ấy Hiền Giả Phân Nậu Văn Đà Ni Phất bạch Phật: Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con có thể giảng luận về mục đích ý nghĩa danh hiệu Đại Bồ Tát chăng?
Đức Thế Tôn dạy: Được, ông cứ nói!
Ngài Phân Nậu Văn Đà Ni Phất nói: Trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn, mặc áo giáp đại đức, Đại Bồ Tát vì chí đại thừa chăng?
Vị ấy là nguời nương đại thừa. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, vì vậy Đại Bồ Tát hiệu là Đại Bồ Tát.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi Ngài Phân Nậu Văn Đà Ni Phất: Vì nhân duyên gì mà gọi Đại Bồ Tát là trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn đại thừa không thoái chuyển?
Ngài Phân Nậu Văn Đà Ni Phất đáp: Thưa Hiền Giả! Đại Bồ Tát chẳng vì sự tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ thí Ba la mật để có việc bố thí mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ thí Ba la mật để có việc bố thí.
Chẳng vì sự tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ giới Ba la mật để thành tựu cấm giới mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ giới Ba la mật để thành tựu cấm giới.
Chẳng vì riêng cho việc tu học của một loài chúng sinh nào mà trụ nhẫn Ba la mật để có nhẫn mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ nhẫn Ba la mật để hành nhẫn nhục.
Chẳng vì sự tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ tinh tấn Ba la mật để thực hiện tinh tấn mà vì tất cả các loài hữu tình nên trụ tinh tấn Ba la mật để tinh tấn.
Chẳng vì sự tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ thiền Ba la mật để không loạn ý mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ thiền Ba la mật để được nhất tâm.
Chẳng vì việc tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ bát nhã Ba la mật để hành trí tuệ mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ bát nhã Ba la mật để tuân theo trí tuệ.
Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật chẳng vì dứt hết loài chúng sinh hoặc giới hạn chúng sinh mà trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn rằng: Ta sẽ diệt độ ngần ấy chúng sinh, chẳng diệt độ ngần ấy chúng sinh, an lập ngần ấy người vào Phật đạo, không an lập ngần ấy người vào Phật đạo.
Mà Đại Bồ Tát vì tất cả các loài chúng sinh, trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn và tự nghĩ: Ta sẽ tự thành tựu viên mãn thí Ba la mật, khuyến trợ chúng sinh khiến nhập vào tất cả nghiệp thí Ba la mật, giới Ba la mật, nhẫn Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền Ba la mật, bát nhã Ba la mật. Ta sẽ thành tựu viên mãn việc hành Ba la mật, khuyến trợ tất cả chúng sinh, khiến nhập vào bát nhã Ba la mật vô cực.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Giả sử Đại Bồ Tát hành thí Ba la mật thì cái có thể cho tất cả là trí nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ Tát ấy xem các chúng sinh là bè bạn, là con của mình, còn khuyến trợ họ đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.
Thưa Hiền Giả! Đó là Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành thí Ba la mật, cái có thể cho là trí nhất thiết để tu sửa tâm ý. Đối với người đã phát tâm, chẳng vì họ mà vẫn khuyến trợ địa Thanh Văn, Bíchchi Phật.
Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đó là Đại Bồ Tát hành thí Ba la mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành thí Ba la mật, cái có thể cho là trí nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ Tát ấy thường suy nghĩ, giữ gìn cấm giới, không để có điều trái phạm, chẳng dùng để khuyến trợ địa Thanh Văn, Bích Chi Phật, mà khuyến trợ đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Đó là Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành thí Ba la mật, cái có thể cho là trí nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ Tát ấy thường suy nghĩ, nhẫn chịu các pháp, dùng nhẫn nhục để khuyến khích chúng sinh, xem họ là bè bạn, là con mình. Dùng nhẫn nhục để khuyến trợ họ, chẳng vì Thanh Văn, Bích Chi Phật mà vì đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Đó là Đại Bồ Tát hành nhẫn Ba la mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn.
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành thí Ba la mật, cái có thể cho là trí nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ Tát ấy thường thực hiện tinh tấn, chẳng bỏ chuyên cần, việc làm tinh tấn không có thiếu sót, chẳng dùng để khuyến trợ Thanh Văn, Bích Chi Phật mà để đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Đó là Đại Bồ Tát hành tinh tấn Ba la mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật, cái có thể cho là trí nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ Tát ấy không nghĩ gì khác, chỉ tư duy nghiệp trí nhất thiết tuệ, tư duy không bỏ, chẳng nghe hạnh Thanh Văn, Bích Chi Phật, chỉ cầu đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Đó là Đại Bồ Tát hành thiền Ba la mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành thí Ba la mật, cái có thể cho là trí nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ Tát ấy thường làm theo trí tuệ, lìa tà tuệ, dùng nghiệp trí tuệ khai phát tất cả, không có các lậu, chẳng dùng để khuyến trợ địa Thanh Văn, Bích Chi Phật mà cầu đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Đó là Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành thí Ba la mật, cái có thể cho là trí nhất thiết để tu sửa tâm ý. Khi cho khởi tâm huyễn hóa, không có gì để cho, cũng không có người cho, cũng không có người nhận. Đại Bồ Tát bố thí như thế, không vì khuyến trợ Thanh Văn, Bích Chi Phật mà vì cầu đạt được Vô thượng Chánh Đẳng Giác. Đó là Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn.
Ngài Phân Nậu Văn Đà Ni Phất nói với Ngài Xá Lợi Phất: Giả sử Đại Bồ Tát tâm tôn sùng trí nhất thiết thì đối với các Ba la mật không có tưởng cầu, cũng không sở đắc. Đó gọi là thệ nguyện rộng lớn của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật, tâm tôn sùng trí nhất thiết để bố thí, tôn sùng tâm trí nhất thiết để cứu độ chúng sinh tức là để khuyến trợ tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Đó là Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật vì thí Ba la mật.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Khi hành giới Ba la mật, đối với những việc làm mà không ai nhẫn được, chẳng thể nhẫn được, Đại Bồ Tát không gì là chẳng nhẫn được. Đó là Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật vì nhẫn Ba la mật.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật, thì tự nhiên phát khởi việc tinh tấn không có lười biếng bỏ bê. Đó là Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật vì tinh tấn Ba la mật.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật, tâm tôn sùng trí nhất thiết, suy nghĩ việc làm, chẳng tin tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, tâm thường chuyên nhất, tư duy thiền định không có loạn. Đó là Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật vì thiền Ba la mật.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật, đối với tất cả các pháp sở hữu, quán niệm như huyễn, cũng chẳng nghĩ giới, cũng không sở đắc, chẳng tin tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, phân biệt trí tuệ vi diệu. Đó là Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật vì bát nhã Ba la mật.
Như thế, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành giới Ba la mật tức là bao gồm đầy đủ hết các Ba la mật. Đó gọi là thệ nguyện rộng lớn của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành nhẫn Ba la mật mà có sự bố thí, tôn sùng phát khởi tâm trí nhất thiết, chẳng tin tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, có thể nhẫn nhục hết, không kết hận, để khuyến trợ quả Chánh Đẳng Giác.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành tinh tấn Ba la mật mà có sự bố thí, tôn sùng phát khởi tâm trí nhất thiết, chẳng tin tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, thường hành tinh tấn, chẳng tiến chẳng thoái thì đạt đến Chánh Đẳng Giác.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành thiền Ba la mật, mà có sự bố thí, tôn sùng phát khởi tâm trí nhất thiết, chẳng tin tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, tâm thường định, không bị loạn động, không loạn nào mà chẳng loạn, cũng chẳng thấy loạn, chẳng thấy định ý.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật, tôn sùng phát khởi tâm trí nhất thiết, chẳng tin tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, tâm ý to lớn không có gì mà chẳng thông, chẳng tại sinh tử, chẳng ở diệt độ.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát dùng định vô sắc để hành tam muội, chẳng theo Thiền giáo mà có chỗ phát sinh. Đó là Đại Bồ Tát có phương tiện thiện xảo bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Giả sử Đại Bồ Tát hoặc hành thiền định, hay bốn đẳng tâm mà dùng tam muội định vô sắc thì chẳng mất Thiền định và bốn Đẳng tâm, tam muội vô sắc. Đó là Đại Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát lại tu thiền tư, hành bốn đẳng tâm, tam muội vô sắc. Ở trong sự tĩnh lặng quán thấy không, vô tướng, vô nguyện. Thấy như thế rồi thì đó là Đại Bồ Tát trang nghiêm bằng áo giáp bát nhã Ba la mật.
Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Như thế, gọi là Đại Bồ Tát được trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn.
Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Như thế, Đại Bồ Tát giả sử mặc áo giáp này thì Chư Phật Thiên Trung Thiên ở Thế Giới Chư Phật trong tám phương, trên dưới đều có thể tuyên dương lời dạy vi diệu, khen ngợi công đức bằng âm thanh thông suốt, rằng ở Thế Giới đó có Đại Bồ Tát mặc áo giáp đại đức, giáo hóa chúng sinh, làm nghiêm tịnh Cõi Phật.
Xá Lợi Phất hỏi Ngài Phân Nậu Văn Đà Ni Phất: Sao gọi là Đại Bồ Tát không thoái chuyển ngang bằng đại thừa?
Ngài Phân Nậu Văn Đà Ni Phất trả lời: Thưa Hiền Giả! Đại Bồ Tát hành sáu pháp Ba la mật, tịnh trừ các dục, diệt bỏ các pháp ác bất thiện, thuận theo tưởng hữu hành mà trụ tịch nhiên, chỉ còn sự an ổn, có thể thành tựu tầng thiền thứ nhất. Đã lìa dục, không có các ác, dứt bỏ các tưởng có thể nghĩ đến, tịch nhiên an ổn, có thể thành tựu tầng thiền thứ hai.
Dứt bỏ các tưởng, không nghĩ không tưởng mà tâm tự tu như lời dạy của Thánh Hiền, chẳng trái với sự minh đạt, được vui vẻ an ổn, thì liền đắc tầng thiền thứ ba. Dứt an, bỏ khổ, đối với các việc thiện ác đã tiếp xúc, vừa ý, hoặc không vừa ý, cũng không khổ không vui mà an trú tịch nhiên, được vui vẻ, an ổn thì liền thành tựu tầng Thiền thứ tư.
Hành, bốn Đẳng tâm, tâm từ luôn thương yêu không oán, không kết, cũng không điên đảo, rộng lớn vô cùng, tốt lành vô lượng, chỗ tâm hành trong khắp các thế gian, đều không rời nó.
Tâm bi, hỷ, hộ xả cũng giống như thế. Tâm Xả thường có mặt, không oán không kết, cũng không điên đảo, rộng lớn vô biên, tốt lành vô lượng, chỗ tâm hành trong khắp các thế gian đều không rời nó. Đó là thiền tư của Đại Bồ Tát. Đại Bồ Tát dùng thiền tư này hành bốn đẳng tâm, dùng điều tốt đẹp này hành định tam muội.
Sau khi hành pháp này rồi, dùng để khuyến trợ trí nhất thiết. Đó là sáu pháp Ba la mật của Đại Bồ Tát mà thí Ba la mật là gốc, giới Ba la mật, nhẫn Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền Ba la mật, bát nhã Ba la mật, tất cả đều như thế. Đó gọi là trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát cùng với tâm từ rộng lớn cùng khắp nhưng không có hai, không có ranh giới, không có ràng buộc mà cũng không ở tại một chỗ. Tin thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư cũng giống như thế, cho đến ở dưới không ranh giới, trên không giới hạn, tám phương trên dưới không đâu là chẳng khắp, đầy đủ bốn thiền. Đó là tam muội của Đại Bồ Tát.
Giả sử Đại Bồ Tát tôn sùng tâm ấy ở trí nhất thiết, hành thiền thứ nhất để cứu độ tất cả chúng sinh, thì khuyến trợ họ đắc các thông tuệ. Đại Bồ Tát ấy đầy đủ trí nhất thiết mà phát tâm tuệ rồi mới dùng phương tiện diễn bày thông suốt ý nghĩa, vì người nói Kinh. Đó là thí Ba la mật của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, Đại Bồ Tát, tâm đạt đến trí nhất thiết, tư duy tu theo thiền thứ nhất. Giả sử có thể trụ ở thiền thứ nhất thì lại chẳng tin ưa phát tâm nào khác, chẳng theo tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đó là Đại Bồ Tát chẳng phạm giới Ba la mật.
Giả sử Đại Bồ Tát, tâm chí đặt ở trí nhất thiết, tuân tu tư duy, liền tự phát sinh ý nghĩa khiến cho tất cả loài chúng sinh diệt trừ khổ cực, vì họ thuyết Kinh Pháp, tùy theo tâm niệm ưa thích của họ, quán căn nguyên của họ để khai hóa. Đó là Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật.
Giả sử Đại Bồ Tát, tâm tu theo trí nhất thiết, khuyến trợ tất cả gốc công đức, đối với các thông tuệ chẳng thấy chỗ hướng tới của tinh tấn. Đó là Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật.
Giả sử Đại Bồ Tát, tâm tu theo trí nhất thiết, từ thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư lại quán sát vô thường, khổ, không, vô ngã, không, vô tướng, vô nguyện. Đó là Đại Bồ Tát hành thiền Ba la mật.
Giả sử Đại Bồ Tát, tâm tôn sùng trí nhất thiết, quán tất cả pháp giống như huyễn hóa, không có ba cõi mà vì người thuyết Kinh thì đó là Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật. Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất, Pháp đại thừa của Đại Bồ Tát tạo lập tất cả bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám Thánh Đạo.
Lại tạo lập đầy đủ tất cả tam muội Không, tam muội vô tướng, vô nguyện, mười lực, bốn vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp bất cộng. Đó là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát chẳng bảo là không cầu hai địa này là địa Thanh Văn và địa Bích Chi Phật, tâm chỉ ưa trí nhất thiết. Đại Bồ Tát ấy hành không phóng dật, thực hiện bốn Đẳng tâm, thành tựu nhẫn Ba la mật.
Giả sử Đại Bồ Tát, tâm tu theo và tự hưng phát trí tuệ thương yêu tất cả, việc làm vô hạn, không gì phá hoại. Đó là Đại Bồ Tát hành tinh tấn Ba la mật.
Giả sử Đại Bồ Tát đối với bốn vô đẳng tâm mà hành thiền định, chẳng do thiền định và bốn đẳng tâm mà có điều quên mất, thì đó là Đại Bồ Tát hành bốn đẳng tâm không phóng dật có phương tiện thiện xảo.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành tam muội Từ tâm: Ta nên cứu hộ tất cả chúng sinh, liền tu theo tam muội Bi, thương xót chúng sinh thực hiện lòng bi thuận theo hướng này.
Thực hiện tam muội Hỷ: Ta sẽ độ thoát các loài chúng sinh, dần dần tiến tới tam muội Hộ xả giúp cho chúng sinh đạt đến lậu tận. Đó là Đại Bồ Tát hành bốn Đẳng tâm không có phóng dật có thí Ba la mật.
Giả sử thiền tư không phóng dật hành bốn Đẳng tâm, duyên vào điềm lành, không dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh Văn, Bích Chi Phật, mà thuận theo tuệ thương yêu tất cả. Đó là Đại Bồ Tát hành bốn Đẳng tâm, không trái phạm giới Ba la mật.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Pháp đại thừa của Đại Bồ Tát hiểu rõ pháp nội không chẳng rơi vào điên đảo, cũng không cầu gì, chẳng có sở đắc về khổ vui, thiện ác, có sở hữu cái không tự nhiên. Đối với các thông tuệ, cũng không sở đắc, không có trong, ngoài, chẳng có trung gian. Đó là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Pháp đại thừa của Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp không có loạn, cũng không có tuệ tam muội. Đó là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Pháp đại thừa của Đại Bồ Tát luôn có chí hướng đại thừa, trí tuệ của họ tự do, trí tuệ ấy chẳng trụ tại thường, chẳng trụ tại vô thường, chẳng chấp khổ hay chẳng khổ, vui hay chẳng vui, điều ấy chẳng do trí tuệ trụ ở ngã sở hay chẳng phải ngã sở. Đó là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát vì không sở đắc nên chẳng rơi vào điên đảo.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Pháp đại thừa của Đại Bồ Tát, trí tuệ của họ tự do chẳng ở tại quá khứ, chẳng ở tại vị lai, chẳng ở tại hiện tại, chẳng ở tại ba đời, không có chỗ của trí tuệ. Đó là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát thường không sở đắc, chẳng rơi vào điên đảo.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Pháp đại thừa của Đại Bồ Tát, trí tuệ của họ chẳng buộc ràng vào Cõi Dục, chẳng buộc ràng vào Cõi Sắc, chẳng buộc ràng vào Cõi Vô Sắc mà là trí tuệ tự tại, biết hết Cõi Dục, Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc một cách tự tại, cũng không sở đắc, cũng chẳng rơi vào điên đảo. Đó là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Pháp đại thừa của Đại Bồ Tát, trí tuệ tự tại, chẳng đồng trí tuệ thế gian, cũng chẳng chìm trong trí tuệ thế gian, chẳng ở tại hữu vi, chẳng ở tại vô vi, chẳng ở tại hữu lậu, chẳng ở tại vô lậu.
Pháp tuệ này tự do, biết hết trí tuệ thế tục, trí tuệ vượt thế tục, chẳng phải chẳng biết. Biết hết pháp hữu vi, vô vi, chẳng phải chẳng biết, cũng không sở đắc, chẳng rơi vào điên đảo. Đó là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba