Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Bốn - Bốn Pháp - Phẩm Hai Mươi - ðại Phẩm - Phần Một - Nghe Với Tai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT
KINH TĂNG CHI BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
CHƯƠNG BỐN
BỐN PHÁP
PHẨM HAI MƯƠI
ÐẠI PHẨM
PHẦN MỘT
NGHE VỚI TAI
Này các Tỳ Kheo, các pháp do được nghe bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập, có bốn lợi ích được chờ đợi.
Thế nào là bốn?
Ở đây, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo học thuộc lòng pháp, như Kinh: Ứng Tụng Phương Quảng. Các pháp ấy, vị ấy được nghe bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập. Vị ấy khi mạng chung bị thất niệm, được sanh cộng trú với một loại Thiên Nhân. Tại đấy, các vị sống an lạc đọc các pháp cú cho vị ấy.
Này các Tỳ Kheo, chậm chạp niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng. Này các Tỳ Kheo, do được nghe các pháp bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập. Đây là lợi ích thứ nhất được chờ đợi.
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo học thuộc lòng pháp, như Kinh: Ứng Tụng Phương Quảng. Các pháp ấy, vị ấy được nghe bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập. Vị ấy khi mạng chung bị thất niệm, được sanh cộng trú với một loại Thiên Nhân.
Tại đấy, các vị sống an lạc không đọc các pháp cú cho vị ấy. Nhưng có Tỳ Kheo có thần thông, đã đạt được tâm tự tại, thuyết pháp cho hội chúng Chư Thiên.
Vị ấy sung sướng nghĩ như sau: Ðây chính là pháp và luật mà trước đây ta đã sống phạm hạnh.
Này các Tỳ Kheo, chậm chạp niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng. Ví như, này các Tỳ Kheo, một người thiện xảo về tiếng trống. Người ấy trong khi đi giữa đường có thể nghe được tiếng trống. Người ấy không có nghi ngờ, không có do dự, đó là tiếng trống hay không phải là tiếng trống.
Người ấy đi đến kết luận: Ðây là tiếng trống.
Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo học thuộc lòng pháp, như Kinh: Ứng Tụng Phương Quảng. Các pháp ấy, vị ấy được nghe bằng tai chúng sanh ấy đi đến thù thắng. Này các Tỳ Kheo, do được nghe các pháp bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập, đây là lợi ích thứ hai được chờ đợi.
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo học thuộc lòng pháp, như Kinh: Ứng Tụng Phương Quảng. Các pháp ấy, vị ấy được nghe bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập nhưng không có Tỳ Kheo có thần thông, đạt được tâm tự tại thuyết pháp cho hội chúng Chư Thiên. Và một Thiên Tử thuyết pháp cho hội chúng Chư Thiên.
Vị ấy suy nghĩ như sau: Ðây chính là pháp và luật mà trước đây ta đã sống phạm hạnh. Chậm chạp, này các Tỳ Kheo, niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng.
Ví như, này các Tỳ Kheo, một người thiện xảo về tiếng Tù Và. Người ấy trong khi đi giữa đường có thể nghe được tiếng Tù Và. Người ấy không có nghi ngờ, không có do dự, đó là tiếng Tù Và hay không phải là tiếng Tù Và.
Người ấy đi đến kết luận: Ðây là tiếng Tù Và.
Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo học thuộc lòng pháp, như Kinh: Ứng Tụng Phương Quảng. Các pháp ấy, vị ấy được nghe bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập nhưng không có Tỳ Kheo có thần thông, đạt được tâm tự tại thuyết pháp cho hội chúng Chư Thiên. Và một Thiên Tử thuyết pháp cho hội chúng Chư Thiên.
Vị ấy suy nghĩ như sau: Ðây chính là pháp và luật mà trước đây ta đã sống phạm hạnh.
Này các Tỳ Kheo, chậm chạp niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng.
Này các Tỳ Kheo, do được nghe bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập. Đây là lợi ích thứ ba được chờ đợi.
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo học thuộc lòng pháp, như Kinh: Ứng Tụng Phương Quảng. Các pháp ấy, được nghe bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập nhưng không có Tỳ Kheo có thần thông, đạt được tâm tự tại thuyết pháp cho hội chúng Chư Thiên. Và không có Thiên Tử thuyết pháp cho hội chúng Chư Thiên.
Nhưng có thể có người được hóa sanh, nhắc nhở khiến cho nhớ lại sự hóa sanh: Này bạn, bạn có nhớ không?
Này bạn, bạn có nhớ không, tại chỗ ấy chúng ta đã sống phạm hạnh?
Vị ấy trả lời: Này bạn, tôi nhớ!
Này bạn, tôi nhớ. Chậm chạp, này các Tỳ Kheo, niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng. Ví như, này các Tỳ Kheo, hai người bạn cùng chơi trò chơi đất bùn, hai người vào một thời nào, một chỗ nào được gặp nhau.
Người bạn này có thể nói với người bạn kia:
Này bạn, bạn có nhớ cái này không?
Này bạn, bạn có nhớ cái này không?
Người ấy có thể trả lời: Này bạn, tôi có nhớ! Này bạn, tôi có nhớ!
Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo học thuộc lòng pháp, như Kinh: Ứng Tụng Phương Quảng. Các pháp ấy, do được nghe bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập nhưng không có Tỳ Kheo có thần thông, đạt được tâm tự tại thuyết pháp cho hội chúng Chư Thiên. Và không có Thiên Tử thuyết pháp cho hội chúng Chư Thiên.
Nhưng có thể có người được hóa sanh, nhắc nhở cho nhớ lại sự hoá sanh: Này bạn, bạn có nhớ không?
Này bạn, bạn có nhớ không, tại chỗ ấy chúng ta đã sống phạm hạnh?
Vị ấy trả lời: Này bạn, tôi nhớ!
Này bạn, tôi nhớ. Chậm chạp, này các Tỳ Kheo, niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng.
Này các Tỳ Kheo, do được nghe các pháp bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập. Đây là lợi ích thứ tư được chờ đợi.
Này các Tỳ Kheo, do được nghe các pháp bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập. Có bốn lợi ích này được chờ đợi.
TRƯỜNG HỢP
Này các Tỳ Kheo, có bốn trường hợp này, cần phải được hiểu với bốn trường hợp.
Thế nào là bốn?
Này các Tỳ Kheo, với cộng trú, giới cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ.
Này các Tỳ Kheo, với cùng một nghề, thanh tịnh liêm khiết cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ.
Này các Tỳ Kheo, trong những hoạn nạn, sức kiên trì cần phải được hiểu biết, như vậy trong một thời gian dài với liệt tuệ.
Này các Tỳ Kheo, với đàm luận, trí tuệ cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài với liệt tuệ.
Này các Tỳ Kheo, với cộng trú, giới cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến do duyên gì được nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỳ Kheo, có người do cộng trú với một người khác biết được như sau: Trong một thời gian dài, vị Tôn Giả này làm giới bị bể vụn, làm giới bị cắt xén, làm giới bị vết nhơ, làm giới bị chấm, đen, làm việc không có liên tục, hạnh kiểm không có liên tục trong các giới. Ác giới là Tôn Giả này, Tôn Giả này không giữ giới.
Nhưng ở đây, này các Tỳ Kheo, người này do cộng trú với người kia, biết như sau: Trong một thời gian dài, vị Tôn Giả này không làm giới bị bể vụn, không làm giới bị cắt xén, không làm giới bị vết nhơ, không làm giới bị chấm, đen, làm việc có liên tục, hạnh kiểm có liên tục trong các giới. Giữ giới là Tôn Giả này, Tôn Giả này không phải ác giới.
Này các Tỳ Kheo, với cộng trú, giới cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài, không có tác ý vấn đề khác, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ. Như vậy được nói đến, do duyên này được nói đến như vậy.
Này các Tỳ Kheo, với cùng chung làm một nghề, thanh tịnh liêm khiết cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian với liệt tuệ, như vậy được nói đến.
Do duyên gì được nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỳ Kheo, một người do cùng làm một nghề với một người khác, biết được như sau: Khác thay, vị Tôn Giả này khi làm việc với một người. Khác thay, với hai người. Khác thay, với ba người. Khác thay, với nhiều người, làm trái ngược là vị Tôn Giả này, các sở hành trước khác với sở hành sau. Không thanh tịnh là sở hành của vị Tôn Giả này. Vị Tôn Giả này có sở hành không thanh tịnh.
Nhưng ở đây, này các Tỳ Kheo, một người do cùng làm một nghề với một người khác, biết được như sau: Như thế nào, Tôn Giả này khi làm việc với một người, như thế ấy với hai người, như thế ấy với ba người, như thế ấy với nhiều người, không làm trái ngược là vị Tôn Giả này, các sở hành trước giống với sở hành sau. Thanh tịnh là sở hành của vị Tôn Giả này.
Này các Tỳ Kheo, với cùng chung làm một nghề, thanh tịnh liêm khiết cần phải được hiểu biết, như vậy trong một thời gian dài với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này được nói đến như vậy.
Này các Tỳ Kheo, trong các hoạn nạn, sức kiên trì cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian với liệt tuệ, như vậy được nói đến.
Do duyên gì được nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỳ Kheo, có người cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách nạn, suy nghĩ như sau: Bản chất như vậy là sự an trú Thế Giới này. Bản chất như vậy là bản tánh tự ngã có được này. Bản chất như vậy là sự an trú Thế Giới. Bản chất như vậy là có được bản tánh tự ngã.
Tám Thế Giới pháp này vận chuyển Thế Giới, và Thế Giới vận chuyển tám pháp, tức là, lợi và thất lợi, không danh tiếng và danh tiếng, chê và khen, lạc và khổ.
Người ấy, cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách nạn, sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
Nhưng ở đây, này các Tỳ Kheo, có người cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách nạn, suy nghĩ như sau: Bản chất như vậy là sự an trú Thế Giới lạc và khổ. Người ấy cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách nạn, không sầu muộn, không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh.
Này các Tỳ Kheo, trong các hoạn nạn, sức mạnh kiên trì cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian dài với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này được nói đến như vậy.
Này các Tỳ Kheo, trong đàm luận, trí tuệ cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian với liệt tuệ, như vậy được nói đến.
Do duyên gì được nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỳ Kheo, có người, do đàm luận với một người khác, biết như vậy: Vị Tôn Giả này, đối một câu hỏi như vậy, phản ứng là như vậy, giải đáp câu hỏi là như vậy, thời liệt tuệ là Tôn Giả này, Tôn Giả này không có trí tuệ.
Vì sao?
Vì Tôn Giả này không nói lên câu nghĩa sâu sắc an tịnh, thù thắng, vượt ngoài lý luận suông, tế nhị, được người hiền trí cảm thọ.
Còn về pháp, vị này thuyết giảng, vị ấy không có khả năng, hoặc tóm tắt, hoặc rộng rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày, an lập, mở rộng, phân tích, phát lộ. Liệt tuệ là vị Tôn Giả này, vị Tôn Giả này không có trí tuệ.
Ví như, này các Tỳ Kheo, một người có mắt, đứng trên bờ một hồ nước, thấy một con cá nhỏ nổi lên, người ấy suy nghĩ như sau: Như vậy, con cá này nổi lên. Như vậy, làm cho gợn sóng. Như vậy là độ nhanh của nó. Nhỏ bé là con cá này, con cá này không lớn.
Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, có người do đàm luận với một người khác, biết như vậy: Vị Tôn Giả này, đối một câu hỏi như vậy, phản ứng là như vậy, giải đáp câu hỏi là như vậy, thời có trí tuệ là Tôn Giả này, Tôn Giả này không phải là liệt tuệ.
Vì sao?
Vì Tôn Giả này nói lên câu nghĩa sâu sắc an tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người hiền trí cảm thọ. Còn về pháp, vị này thuyết giảng, vị này có khả năng, hoặc tóm tắt, hoặc rộng rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày, an lập, mở rộng, phân tích, phát lộ. Có trí tuệ là vị Tôn Giả này, vị Tôn Giả này không phải là liệt tuệ.
Ví như, này các Tỳ Kheo, một người có mắt, đứng trên bờ một hồ nước, thấy một con cá lớn nổi lên, người ấy suy nghĩ như sau: Như vậy, con cá này nổi lên. Như vậy, con cá này làm cho gợn sóng. Như vậy là độ nhanh của nó. To lớn là con cá này, con cá này không nhỏ.
Này các Tỳ Kheo, trong đàm luận, trí tuệ cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý, không phải không tác ý với trí tuệ, không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này được nói đến như vậy.
Có bốn trường hợp này, này các Tỳ Kheo, cần phải được hiểu với bốn trường hợp này.
BHADDIYA
Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli tại Mahàvana trong ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Licchavii Bhaddiya đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Licchavii Bhaddiya bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: Là một nhà huyễn thuật, Sa Môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo.
Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: Sa Môn Gotama là một huyễn thuật sư, biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo, những người ấy, bạch Thế Tôn, có phải nói đúng ý kiến của Thế Tôn, không có xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật.
Có phải họ trả lời về pháp hợp với chánh pháp?
Và ai là vị đồng pháp, theo đồng môt quan điểm, không có lý do để chỉ trích?
Bạch Thế Tôn, chúng con không muốn xuyên tạc Thế Tôn. Này Bhaddiya, chớ có tin vì nghe truyền thuyết.
Chớ có tin vì theo truyền thống.
Chớ có tin vì nghe người ta nói.
Chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng.
Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình.
Chớ có tin vì đúng theo một lập trường.
Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện.
Chớ có tin vì phù hợp với định kiến.
Chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền.
Chớ có tin vì vị Sa Môn là bậc Ðạo Sư của mình.
Nhưng này Bhaddiya, khi nào tự mình ông biết rõ như sau: Các pháp này là bất thiện. Các pháp này là có tội. Các pháp này là bị người có trí chỉ trích. Các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh và khổ đau, thời này Bhaddiya, Ông hãy từ bỏ chúng.
Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya! Lòng tham khi khởi lên trong một nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
Bất hạnh, bạch Thế Tôn! Người này có tham, này Bhaddiya, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, giết loài hữu tình, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cùng làm như vậy, như vậy có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
Thưa có, bạch Thế Tôn! Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya, lòng sân lòng si lòng hung bạo khi khởi lên trong một nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
Bất hạnh, bạch Thế Tôn! Người này có lòng hung bạo, này Bhaddiya, bị hung bạo chinh phục, tâm mất tự chủ, giết loài hữu tình, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cùng làm như vậy, như vậy có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
Thưa có, bạch Thế Tôn! Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya, các pháp này là thiện hay bất thiện?
Là bất thiện, bạch Thế Tôn! Có tội hay không có tội?
Có tội, bạch Thế Tôn! Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?
Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.
Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không, hay ở đây là thế nào?
Ðược thực hiện, được chấp nhận, chúng đem lại bất hạnh đau khổ. Ở đây, đối với chúng con là như vậy.
Như vậy, này Bhaddiya, điều Ta vừa nói với các ông: Chớ có tin vì nghe truyền thuyết. Chớ có tin vì theo truyền thống. Chớ có tin vì nghe người Ta nói. Chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng. Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình. Chớ có tin vì đúng theo một lập trường.
Chớ có tin vì đánh giá hời hợt với những dữ kiện. Chớ có tin vì phù hợp với định kiến. Chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền. Chớ có tin vì vị Sa Môn là bậc Ðạo Sư của mình.
Nhưng này Bhaddiya, khi nào tự mình ông biết rõ như sau: Các pháp này là bất thiện. Các pháp này là có tội. Các pháp này là bị người có trí chỉ trích. Các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh và khổ đau, thời này Bhaddiya, Ông hãy từ bỏ chúng.
Như vậy, đã được nói lên, chính do duyên này được nói lên như vậy. Này Bhaddiya, chớ có tin vì nghe truyền thuyết chớ có tin vì vị Sa Môn là bậc Ðạo Sư của mình.
Nhưng này Bhaddiya, khi nào ông tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là thiện. Các pháp này không có tội. Các pháp này là không bị người có trí chỉ trích. Các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, đưa đến hạnh phúc an lạc, thời này Bhaddiya, ông hãy chứng đạt và an trú.
Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya! Không tham khi khởi lên trong một nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
Hạnh phúc, bạch Thế Tôn! Người này không tham, này Bhaddiya, không bị tham chinh phục, tâm không mất tự chủ, không giết loài hữu tình, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cùng làm như vậy, như vậy có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?
Thưa có, bạch Thế Tôn! Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya, không sân, không si, không hung bạo khi khởi lên trong một nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
Hạnh phúc, bạch Thế Tôn! Người này không có lòng hung bạo, này Bhaddiya, không bị hung bạo chinh phục, tâm không mất tự chủ, không giết loài hữu tình, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cùng làm như vậy, như vậy có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?
Thưa có, bạch Thế Tôn! Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya, các pháp này là thiện hay bất thiện?
Là thiện, bạch Thế Tôn! Có tội hay không có tội?
Không có tội, bạch Thế Tôn! Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?
Ðược người có trí tán thán, bạch Thế Tôn.
Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đem lại hạnh phúc an lạc không, hay ở đây là thế nào?
Ðược thực hiện, được chấp nhận, Bạch Thế Tôn. Chúng đem lại hạnh phúc an lạc. Ở đây, đối với chúng con là như vậy.
Như vậy, này Bhaddiya, điều ta vừa nói với các ông: Chớ có tin vì nghe truyền thuyết. Chớ có tin vì theo truyền thống. Chớ có tin vì nghe người ta nói. Chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng. Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình.
Chớ có tin vì đúng theo một lập trường. Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện. Chớ có tin vì phù hợp với định kiến. Chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền. Chớ có tin vì vị Sa Môn là bậc Ðạo Sư của mình.
Nhưng này Bhaddiya, khi nào tự mình ông biết rõ như sau: Các pháp này là thiện. Các pháp này là không có tội. Các pháp này được người có trí tán thán. Các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc và an lạc. Thời này Bhaddiya, Ông hãy chứng đạt và an trú. Ðiều này đã được nói lên, chính do duyên này được nói lên như vậy.
Này Bhaddiya, tất cả những bậc Chân nhân tịch tịnh ở đời, khích lệ đệ tử như sau: Hãy đến, này bạn! Hãy nhiếp phục tham, hãy sống nhiếp phục tham. Do sống nhiếp phục tham, bạn sẽ không làm nghiệp do tham sanh, về thân, về lời, về ý.
Hãy nhiếp phục sân! Hãy nhiếp phục sân! Do sống nhiếp phục sân, bạn sẽ không làm nghiệp do sân sanh, về thân, về lời, về ý.
Hãy nhiếp phục si! Hãy nhiếp phục si! Do sống nhiếp phục si, bạn sẽ không làm nghiệp do si sanh, về thân, về lời, về ý.
Hãy nhiếp phục hung bạo! Hãy nhiếp phục hung bạo! Do sống nhiếp phục hung bạo, bạn sẽ không làm nghiệp do hung bạo sanh, về thân, về lời, về ý.
Khi được nói như vậy, Bhaddiya người Licchavi bạch Thế Tôn: Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn, Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử Cư Sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Này Bhaddiya, Ta có nói với Ông như sau: Hãy đến, này Bhaddiya.
Hãy đến làm đệ tử của Ta, này Bhaddiya.
Ta sẽ là Ðạo Sư của ông không?
Thưa không, bạch Thế Tôn!
Như vậy, này Bhaddiya, những Sa Môn, Bà La Môn nói như sau, tuyên bố như sau, những vị ấy là không thiện, trống không, nói láo, xuyên tạc với điều không thật: Là một huyễn thuật Sư, Sa Môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo.
Bạch Thế Tôn, hiền thiện là huyễn thuật dụ dỗ này.
Bạch Thế Tôn, hiền lành là huyễn thuật dụ dỗ này.
Con mong rằng, bạch Thế Tôn, các bà con huyết thống thân ái của con được huyễn thuật dụ dỗ này dụ dỗ. Như vậy, những bà con huyết thống của con tất cả được hạnh phúc an lạc lâu dài.
Bạch Thế Tôn, nếu tất cả những người Sát Đế Lỵ được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, tất cả các Sát Đế Lỵ được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài.
Bạch Thế Tôn, nên tất cả người Bà La Môn tất cả người Phệ xá tất cả Thủ Đà được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, tất cả các Thủ Đà ấy được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài.
Như vậy là phải, này Bhaddiya! Như vậy là phải, này Bhaddiya!
Này Bhadiya, nếu tất cả những người Sát Đế Lỵ được cám dỗ với sự dụ dỗ này để đoạn tận các pháp bất thiện, để đầy đủ các pháp thiện, như vậy tất cả các Sát Đế Lỵ được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài.
Này Bhàddiya, nếu tất cả người Bà La Môn tất cả người Phệ xá tất cả mọi người Thủ Đà được cám dỗ với sự dụ dỗ này để đoạn tận các pháp bất thiện, để đầy đủ các pháp thiện, như vậy tất cả các Thủ Đà được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài.
Này Bhaddiya, nếu Thế Giới cùng với Chư Thiên, Màra, Phạm Thiên, với quần chúng Sa Môn, Bà La Môn, Chư Thiên và loài người được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, để đoạn tận các pháp bất thiện, để đầy đủ các pháp thiện, như vậy chúng được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài.
Này Bhaddiya, nếu các cây Sa La to lớn này được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, để đoạn tận các pháp bất thiện, để đầy đủ các pháp thiện, như vậy tất cả cây sa la to lớn này được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài nếu chúng có thể suy nghĩ được, còn nói gì với con người.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Bốn Mươi Sáu - Kinh Trộm Trâu ăn Thịt
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Mười Hai - Phẩm Hiền Thủ - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm đàm Vô Kiệt
Phật Thuyết Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Bảy - Phẩm Hồi Hướng
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Như Thật Tri - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Ba - Phẩm Ma Ha Tát - Phần Một