Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm An Ban - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
PHẨM MƯỜI BẢY
PHẨM AN BAN
PHẦN HAI
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Bà La Môn Sanh Lậu đi đến chỗ Thế Tôn thăm hỏi, rồi ngồi một bên.
Lúc này Bà La Môn Sanh Lậu bạch Thế Tôn: Nên quán người ác tri thức thế nào?
Thế Tôn dạy: Nên xem như xem mặt trăng.
Bà La Môn hỏi: Nên quán thiện tri thức thế nào?
Thế Tôn dạy: Nên xem như xem mặt trăng.
Bà La Môn nói: Nay Sa Môn Cù Đàm nói lược cốt yếu mà chưa giảng rộng nghĩa. Cúi mong Cù Đàm nói rộng rãi khiến người chưa hiểu được hiểu.
Bà La Môn! Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ!
Ta sẽ vì ông giảng rộng nghĩa này.
Xin vâng, Cù Đàm.
Bà La Môn Sanh Lậu nhận lời dạy rồi, Thế Tôn bảo: Giống như, này Bà La Môn, Trăng cuối tháng, ngày đêm xoay vần, còn khuyết chưa có đầy. Ðó là tổn giảm. Hoặc lại có lúc trăng không hiện, không có người thấy. Ðây cũng như thế.
Này Bà La Môn! Như ác tri thức trải qua ngày đêm, dần dần không có tín, không có giới, không có văn, không có thí, không có trí tuệ. Người đó vì không có tín, giới, văn, thí, tuệ nên với ác tri thức đó, khi thân hoại mạng chung, bị vào trong địa ngục. Thế nên, Bà La Môn, nay ta nói là ác tri thức giống như Trăng cuối tháng.
Giống như, này Bà La Môn, Trăng đầu tháng, theo ngày đêm dần qua, ánh sáng tăng lên dần dần tròn đầy, rồi đến ngày rằm tròn đầy, tất cả chúng sanh đều thấy.
Cũng vậy, Bà La Môn, như thiện tri thức, trải qua ngày đêm, tăng thêm tín, giới, văn, thí, trí tuệ. Người ấy do tăng thêm tín, giới, văn, thí, trí tuệ nên thiện tri thức kia, khi thân hoại mạng chung, được sanh lên Trời và cõi lành. Thế nên, Bà La Môn, ta nói thiện tri thức này, chỗ thú hướng giống như mặt trăng tròn đầy.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:
Nếu người có tham dục,
Sân giận, si chẳng dứt,
Với lành, dần có giảm,
Giống như Trăng sắp hết.
Nếu người không tham dục,
Sân giận, ai cũng dứt,
Với thiện, có tăng dần,
Giống như Trăng tròn đầy.
Thế nên, Bà La Môn, nên học như Trăng đầu tháng.
Bấy giờ Bà La Môn Sanh Lậu bạch Thế Tôn: Lành thay, Cù Đàm!
Ví như người gù được thẳng, người mù được sáng, người mê thấy đường, ở nơi tối tăm có đèn sáng. Ðây cũng như thế, Sa Môn Cù Đàm dùng vô số phương tiện thuyết pháp cho con. Nay con xin tự quy y Phật, pháp và Chúng Tăng.
Từ nay xin cho con làm Ưu Bà Tắc, cho đến hết đời không sát sanh. Bấy giờ Bà La Môn Sanh Lậu, nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Nay ta sẽ thuyết về pháp thiện tri thức, cũng sẽ thuyết về pháp ác tri thức. Hãy lắng nghe lắng nghe và khéo suy nghĩ.
Các Tỳ Kheo đáp: Xin vâng, Thế Tôn!
Bấy giờ các Tỳ Kheo vâng lời Phật dạy, Thế Tôn bảo: Kia vì sao gọi là pháp ác tri thức?
Ở đây, này Tỳ Kheo, người ác tri thức sanh niệm này: Ta ở trong dòng hào tộc, xuất gia học đạo. Các Tỳ Kheo khác là hạng ty tiện xuất gia. Ỷ nơi dòng họ mình, hủy báng người khác. Ðó gọi là pháp ác tri thức.
Hơn nữa, người ác tri thức còn sanh niệm này: Ta cực kỳ tinh tấn vâng theo các pháp chân chánh. Các Tỳ Kheo khác, chẳng tinh tấn trì giới. Lại dùng nghĩa này hủy báng người khác mà tự cống cao. Ðó là pháp ác tri thức.
Hơn nữa, ác tri thức lại nghĩ: Ta tam muội thành tựu, Tỳ Kheo khác không có tam muội, tâm ý lầm lẫn không có nhất định. Người ấy ỷ vào tam muội này thường tự cống cao, hủy báng người khác. Ðó gọi là pháp ác tri thức.
Hơn nữa, ác tri thức lại nghĩ: Ta trí tuệ bậc nhất, các Tỳ Kheo khác không có trí tuệ. Người ấy ỷ vào trí tuệ này, mà tự cống cao hủy báng người khác. Ðó là pháp ác tri thức.
Hơn nữa, ác tri thức lại nghĩ: Nay ta thường được thức ăn, giường mền, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh. Các Tỳ Kheo khác không có được vật cúng dường này.
Người ấy ỷ vào vật lợi dưỡng này mà tự cống cao, hủy báng người khác. Ðó gọi là pháp ác tri thức. Như vậy, này các Tỳ Kheo, người ác tri thức hành tà nghiệp này.
Kia vì sao gọi là pháp thiện tri thức?
Ở đây, này Tỳ Kheo, người thiện tri thức không nghĩ thế này: Ta sanh trong nhà hào tộc, các Tỳ Kheo khác không phải là nhà hào tộc, thân mình và người không có khác. Ðó gọi là pháp thiện tri thức.
Hơn nữa, người thiện tri thức không nghĩ: Nay ta trì giới, các Tỳ Kheo khác không giữ giới hạnh, thân mình và người không có tăng giảm. Người ấy y theo giới này không tự cống cao, chẳng chê bai người khác. Như vậy, này Tỳ Kheo, gọi là pháp thiện tri thức.
Hơn nữa, này Tỳ Kheo, người thiện tri thức lại không nghĩ: Ta tam muội thành tựu, các Tỳ Kheo khác ý loạn chẳng định, thân mình và người cũng không tăng giảm. Người ấy nương tam muội này không tự cống cao cũng không hủy báng người khác. Như vậy, này Tỳ Kheo, gọi là pháp thiện tri thức.
Hơn nữa, này Tỳ Kheo, người thiện tri thức không nghĩ: Tôi trí tuệ thành tựu, các Tỳ Kheo khác không có trí tuệ, thân ta và người không có tăng giảm. Người ấy nương trí tuệ này, không tự cống cao cũng không chê bai người khác. Như vậy, này Tỳ Kheo, gọi là pháp thiện tri thức.
Hơn nữa, này Tỳ Kheo, người thiện tri thức không nghĩ: Ta có thể được y phục thức ăn, giường mền, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh. Các Tỳ Kheo khác không được y phục, thức ăn, giường mền, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, thân mình và thân người cũng không tăng giảm.
Người ấy nương lợi dưỡng này, không tự cống cao, cũng không hủy báng người khác. Như vậy, này Tỳ Kheo, gọi là pháp thiện tri thức.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Nay ta phân biệt pháp ác tri thức cho các thầy và cũng lại nói pháp thiện tri thức cho các thầy rồi. Thế nên, này các Tỳ Kheo, hãy cùng nhau xa lìa pháp ác tri thức, nhớ cùng tu hành pháp thiện tri thức.
Như thế, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Thích Sí, vườn Ni Câu Lưu, cùng với chúng năm trăm đại Tỳ Kheo. Bấy giờ năm trăm người hào quý thuộc dòng họ Thích trong nước muốn có chỗ bàn luận, bèn tập họp tại giảng đường Phổ Nghĩa.
Bấy giờ Bà La Môn Thế Ðiển liền đến chỗ dòng họ Thích kia bảo với họ Thích: Thế nào chư vị, trong đây có Sa Môn, Bà La Môn cùng người thế tục nào có thể cùng ta nghị luận chăng?
Bấy giờ những người họ Thích bảo Bà La Môn Thế Ðiển. Nay ở trong đây có hai người tài cao học rộng ở tại nước Ca Tỳ La Vệ.
Hai người nào?
Một người tên là Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc, hai là Cù Đàm họ Thích, Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. So với Tỳ Kheo Bàn Đặc thì mọi người biết ít, vô văn, cũng không trí tuệ, ngôn ngữ vụng về, không phân biệt trước, sau khứ lai.
Lại nữa, cả nước Ca Tỳ La Vệ này đều là vô trí, vô văn, cũng không thông tuệ, là người vụng về, có nhiều xấu uế, như thế so với Cù Đàm.
Nay ông có thể cùng họ luận nghị. Nếu Bà La Môn có thể luận nghị thắng được hai người ấy, năm trăm người chúng tôi sẽ tùy thời cúng dường những thứ cần dùng, cũng sẽ tặng ngàn giật vàng ròng.
Bấy giờ Bà La Môn liền nghĩ: Dòng họ Thích ở Ca Tỳ La Vệ này hẳn đều là thông minh, có nhiều kỹ thuật, gian xảo quỷ quyệt, hư ngụy không có chánh hạnh.
Nếu ta cùng hai người kia luận nghị mà thắng được, đâu đủ trí là lạ. Còn như người ấy thắng ta, tức là ta bị người ngu nhiếp phục. Nghĩ hai lẽ này, ta chẳng kham cùng họ luận nghị. Bà La Môn Thế Ðiển nghĩ như thế rồi liền lui đi.
Lúc này, Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc đến giờ ôm bát vào thành Ca Tỳ La Vệ khất thực.
Bà La Môn Thế Ðiển từ xa trông thấy Châu Lợi Bàn Đặc đi đến, liền hỏi: Sa Môn tên gì?
Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc nói: Thôi! Bà La Môn! Ông chẳng cần hỏi tên.
Sở dĩ ông đến đây vì muốn hỏi nghĩa, thì nên hỏi đi!
Bà La Môn nói: Sa Môn có thể cùng luận nghị với ta chăng?
Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc nói: Ta còn có thể cùng Phạm Thiên luận nghị, hà huống cùng người mù không mắt như ông.
Bà La Môn nói: Người mù tức không phải là người không mắt sao?
Không mắt ắt không phải mù sao?
Ðây chỉ là một nghĩa, há không phải là lập lại lôi thôi?
Lúc này, Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc liền bay lên không trung hiện mười tám thứ biến hóa.
Bấy giờ Bà La Môn liền nghĩ: Sa Môn này chỉ có thần túc chứ không biết nghị luận. Nếu có ai giải được nghĩa này cho ta, ta sẽ thân làm đệ tử.
Lúc này Tôn Giả Xá Lợi Phất dùng Thiên Nhĩ nghe được lời này: Châu Lợi Bàn Đặc cùng Bà La Môn Thế Ðiển luận nghị.
Lúc này, Tôn Giả Xá Lợi Phất liền biến thân thành Tỳ Kheo Bàn Đặc, rồi ẩn hình Tỳ Kheo Bàn Đặc khiến không cho hiện nữa, và bảo Bà La Môn: Bà La Môn! Nếu ông nghĩ rằng Sa Môn này chỉ có thần túc chứ chẳng kham luận nghị, thì nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho, ta sẽ đáp nghĩa ông hỏi, dựa theo gốc của luận này, lại dẫn thêm ví dụ.
Này Bà La Môn! Nay ông tên là gì?
Bà La Môn nói: Ta tên Phạm Thiên.
Châu Lợi Bàn Đặc hỏi: Ông là trượng phu chăng?
Ta là trượng phu.
Là người chăng?
Là người.
Châu Lợi Bàn Đặc hỏi: Thế nào Bà La Môn?
Trượng phu cũng là người, người cũng là trượng phu.
Ðây cũng là một nghĩa, há không là lập lại lôi thôi sao?
Nhưng này Bà La Môn! Mù cùng với không mắt, nghĩa này không đồng.
Bà La Môn nói: Thế nào, Sa Môn gọi đó là mù ư?
Châu Lợi Bàn Đặc nói: Ví như chẳng thấy đời này, đời sau, người sanh, người diệt, màu tốt, màu xấu, hoặc đẹp hoặc xấu, chúng sanh tạo hạnh thiện ác, như thực mà chẳng biết, trọn không thấy gì nên gọi đó là mù.
Bà La Môn nói: Thế nào là người không mắt?
Châu Lợi Bàn Đặc nói: Mắt là mắt trí tuệ vô thượng. Người kia không có con mắt trí tuệ này nên gọi là không mắt.
Bà La Môn nói: Thôi, thôi! Sa Môn! Bỏ tạp luận này đi! Nay ta muốn hỏi nghĩa sâu xa.
Thế nào Sa Môn?
Có thể không nương pháp mà được Niết Bàn chăng?
Châu lợi đáp: Chẳng nương Ngũ thạnh ấm mà được Niết Bàn.
Bà La Môn nói: Thế nào Sa Môn?
Ngũ thạnh ấm này là có duyên sanh hay vô duyên sanh?
Châu Lợi Bàn Đặc đáp: Ngũ thạnh ấm này là có duyên sanh chớ không phải vô duyên sanh.
Ngũ thạnh ấm duyên cái gì?
Ái là duyên.
Cái gì là ái?
Là sanh vậy.
Bà La Môn nói: Cái gì gọi là sanh?
Tỳ Kheo đáp: Tức là ái.
Bà La Môn nói: Ái có đạo nào?
Tỳ Kheo nói: Là Tám đạo phẩm của Hiền Thánh, đó là chánh kiến, chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mạng, chánh hạnh, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Ðó gọi là Tám đạo phẩm của Hiền Thánh. Bấy giờ Châu Lợi Bàn Đặc rộng vì Bà La Môn thuyết pháp rồi, Bà La Môn nghe Tỳ Kheo dạy như thế xong, các trần cấu sạch hết, được pháp nhãn thanh tịnh, liền ở nơi đó bị phong gió đao trong thân nổi lên mà mạng chung.
Lúc này Tôn Giả Xá Lợi Phất, hoàn lại thân hình bay lên không trung trở về chỗ ở. Bấy giờ, Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Nặc đến giảng đường Phổ Nghĩa, chỗ những người họ Thích đang tụ tập.
Ðến rồi bảo họ: Các ông! Mau sắm sửa dầu bơ, củi đuốc, đến trà Tỳ Bà La Môn Thế Ðiển. Bấy giờ họ Thích liền sắm dầu bơ, đến trà tỳ na duy Bà La Môn Thế Ðiển, dựng Tháp ở ngã tư đường. Mọi người theo nhau đến chỗ Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc, đến rồi quỳ lạy và ngồi một bên.
Rồi các người họ Thích dùng bài kệ này nói với Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc.
Trà tỳ rồi dựng Tháp,
Chẳng trái lời Tôn Giả,
Chúng con được lợi lớn,
Ðược gặp phước lành này.
Bấy giờ, Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc liền dùng kệ này đáp:
Nay chuyển Tôn pháp luân,
Hàng phục các ngoại đạo,
Trí tuệ như biển lớn,
Ðến đây hàng Phạm Chí.
Chỗ tạo hạnh thiện ác,
Quá, hiện và vị lai,
Ức kiếp không quên mất,
Thế nên hãy làm phước.
Bấy giờ Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc rộng vì các người họ Thích kia thuyết pháp xong.
Họ Thích bạch Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc: Nếu Tôn Giả cần y phục, thức ăn uống, giường mền, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, chúng con đều sẽ cung cấp mọi thứ. Cúi mong Ngài nhận lời thỉnh cầu, chớ cự tuyệt một chút tình. Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc im lặng nhận lời. Bấy giờ các người họ Thích nghe Tỳ Kheo Châu Lợi Bàn Đặc nói xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở thành La Duyệt, tại Vườn Trúc Ca Lan Đà, cùng chúng năm trăm đại Tỳ Kheo.
Bấy giờ người ác Ðề Bà Đạt Đa liền đến chỗ Vương Tử Bà La Lưu Chi A Xà Thế bảo Vương Tử: Ngày xưa dân chúng thọ mạng rất dài. Như nay người thọ không quá trăm năm.
Vương Tử nên biết, mạng người vô thường, nếu không lên ngôi, nửa đường mạng chung chẳng đau sao?
Vương Tử! Giờ hãy dứt mạng Vua cha, thống lãnh quốc dân. Nay ta sẽ giết Sa Môn Cù Đàm, làm Vô Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh Giác.
Ở nơi nước Ma Kiệt, làm Vua mới, Phật mới không thích hay sao?
Như mặt trời xuyên qua mây, không đâu chẳng chiếu, như mặt trăng mây tan sáng rỡ giữa ngàn sao. Bấy giờ Vương Tử Bà La Lưu Chi, liền bắt Vua cha giam vào ngục sắt, lập thêm quan phụ tá thống lãnh nhân dân.
Khi ấy có nhiều Tỳ Kheo vào thành La Duyệt khất thực, liền nghe Ðề Bà Đạt Đa dạy Vương Tử giam Vua cha vào ngục sắt, lập thêm quan phụ tá.
Lúc này, các Tỳ Kheo khất thực xong trở về chỗ ở, thu xếp y bát đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi bạch Thế Tôn: Sáng nay chúng con vào thành khất thực, nghe người ngu Ðề Bà Đạt Đa dạy Vương Tử khiến bắt Vua cha giam vào lao ngục, lại lập thần tá.
Rồi ông dạy Vương Tử: Ông giết Vua cha, ta hại Như Lai, ở nước Ma Kiệt này làm Vua mới, Phật mới, chẳng thích sao!
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Nếu Vua chúa cai trị không dùng chánh lý, bấy giờ cận thần cũng hành phi pháp. Cận thần đã hành phi pháp, bấy giờ vương thái tử cũng hành phi pháp.
Thái tử đã thành phi pháp, bấy giờ Quần Thần, trưởng quan cũng hành phi pháp. Quần Thần, trưởng quan đã hành phi pháp, bấy giờ nhân dân cõi nước cũng hành phi pháp.
Nhân dân cõi nước đã hành phi pháp, bấy giờ các chúng binh mã cũng hành phi pháp. Binh chúng đã hành phi pháp, bấy giờ mặt trời, mặt trăng đảo lộn, chuyển vận không đúng giờ. mặt trời, mặt trăng đã sai giờ liền không có năm tháng.
Ðã không có năm tháng, Trời sai, Trăng lầm, không còn tinh quang. Trời, Trăng đã không tinh quang, bấy giờ tinh tú hiện quái. Tinh tú đã hiện biến quái liền có bạo phong nổi lên. Ðã có bạo phong nổi lên, thì chư Thần giận dữ.
Chư Thần đã giận dữ, bấy giờ có mưa không đúng thời, lúc ấy hạt ngũ cốc ở dưới đất bèn chẳng tăng trưởng, loài người, các loài bò, bay, máy, cựa, nhan sắc biến đổi, thọ mạng rất ngắn.
Nếu lại có lúc phép Vua cai trị chính đáng, bấy giờ quần thần cũng hành chánh pháp. Quần thần đã hành chánh pháp, thì Vương thái tử cũng hành chánh pháp. Vương thái tử đã hành chánh pháp, bấy giờ trưởng quan cũng hành chánh pháp.
Trưởng quan đã hành chánh pháp, nhân dân cõi nước cũng hành chánh pháp. mặt trời, mặt trăng thuận thường, gió mưa đúng thời, tai quái không hiện, thần kỳ hoan hỷ, ngũ cốc đầy dẫy, Vua tôi hòa mục, nhìn nhau như anh em.
Trọn không thêm bớt, loài hữu tình nhan sắc tươi tốt, thức ăn tự tiêu hóa, không có tai hại, thọ mạng cực dài, được người yêu kính.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:
Ví như trâu lội nước,
Dẫn đường nếu không chính,
Tất cả đều chẳng chính,
Ðó do gốc dẫn đường.
Chúng sanh cũng như vậy,
Trong chúng ắt có người
Dẫn đường hành phi pháp,
Huống là người thấp thỏi.
Dân chúng đều chịu khổ,
Do Vương pháp chẳng chính,
Ðể biết hành phi pháp,
Tất cả dân cũng thế.
Ví như trâu lội nước,
Dẫn đường mà hành đúng,
Người theo cũng đều đúng,
Ðó do gốc dẫn đường.
Chúng sanh cũng như vậy,
Trong chúng ắt có người
Dẫn đường hành chánh pháp,
Huống là hạng thứ dân.
Dân chúng đều hưởng vui,
Do Vương pháp dạy chính,
Nên biết hành chánh pháp,
Tất cả dân cũng lợi.
Thế nên, các Tỳ Kheo, hãy bỏ phi pháp mà hành chánh pháp. Như thế, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Tạp - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Một - Một Pháp - Phẩm Bốn - Phẩm Không ðiều Phục
Phật Thuyết Kinh Mười Hai Nhân Duyên
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ngũ Chuyển
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Thế Ký - Phẩm Mười Hai - Thế Bổn Duyên
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ca Ma - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Năm Mươi Ba - Phẩm Xu Hướng Nhất Thiết Trí