Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh A Dục Vương Thí Bán A Ma Lặc Quả Nhân Duyên Kinh

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:01 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Ðà La, Đời Tống

PHẬT THUYẾT KINH TẠP A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Ðà La, Đời Tống  

KINH A DỤC VƯƠNG THÍ BÁN 

A MA LẶC QUẢ NHÂN DUYÊN KINH  

Vua A Dục, đối với pháp của Như Lai đạt được niềm tin kính sâu xa.

Một hôm, Vua hỏi các Tỳ Kheo: Đối trong pháp của Như Lai, ai là người thực hành bố thí nhất?

Các Tỳ Kheo trả lời Vua rằng: Trưởng giả Cấp Cô Độc, là người thực hành đại bố thí nhất.

Vua lại hỏi: Ông bố thí bao nhiêu vật báu?

Tỳ Kheo đáp: Có đến ức ngàn vàng.

Vua nghe vậy, suy nghĩ như vậy: Gia chủ kia còn có thể bỏ ra ức ngàn vàng.

Nay ta là Vua, vì lý do gì cũng lại bỏ ức ngàn vàng ra bố thí?

Nên bỏ ra ức trăm ngàn vàng bố thí.

Bấy giờ, Vua cho khởi công xây dựng tám vạn bốn ngàn Tháp Phật và trong mỗi Tháp này lại bỏ ra ngàn trăm vàng để cúng. Lại cứ năm năm tổ chức đại hội một lần. Mỗi hội có ba trăm ngàn vị Tỳ Kheo.

Dùng ba trăm ức vàng cúng dường vào trong Chúng Tăng đó. Phần thứ nhất là A La Hán. Phần thứ hai là những vị hữu học. Phần thứ ba là những phàm phu chân thật. Trừ kho tàng riêng ra, vật gì ở Diêm Phù Đề này.

Gồm phu nhân, thể nữ, Thái Tử, Đại Thần, đều có thể đem cúng dường cho Thánh Tăng, rồi dùng bốn mươi ức tiền vàng chuộc chúng trở lại. Như vậy mà tính toán cho đến dùng hết chín mươi sáu ức ngàn tiền vàng.

Cho đến một hôm, Vua bị bệnh nặng. Vua tự biết thân mạng mình sắp kết thúc. Lúc ấy có Đại Thần tên là La Đà Quật Đa, kiếp trước là đứa trẻ đồng bạn với Vua, khi Vua cúng dường nắm đất cho Phật.

Bấy giờ, Đại Thần La Đà Quật Đa thấy Vua đang bị bệnh nặng mạng sắp lâm chung, cúi đầu hỏi Vua bằng kệ:

Dung mạo luôn tươi tốt,

Trăm ngàn nữ vây quanh.

Giống như những đóa sen,

Ong mật tụ tập lại.

Nay nhìn dung nhan Vua,

Không còn tươi thắm nữa.

Vua liền dùng kệ đáp:

Nay ta không còn lo

Mất tiền tài, Vương vị.

Thân này cùng người thân,

Và các thứ châu báu.

Nay ta chỉ có buồn

Không còn thấy Hiền Thánh

Để cúng dường tứ sự.

Nay ta chỉ nghĩ thế,

Nên nhan sắc biến đổi,

Tâm ý lại không an.

Lại nữa, sở nguyện của ta là muốn dùng hết ức trăm ngàn tiền vàng để làm công đức. Nhưng nay nguyện chưa thành, phải để lại đời sau. Nếu đem cả vàng bạc trân báu đã đem ra cúng dường mà tính góp lại trước sau, thì chỉ thiếu có bốn ức là chưa đủ.

Vua liền chuẩn bị các thứ trân bảo gởi cúng vào Chùa Kê Tước. Con của Pháp Ích tên là Tam Ba Đề được lập lên làm Thái Tử.

Các Đại Thần thưa Thái Tử rằng: Chẳng còn bao lâu, Đại Vương sẽ qua đời. Nay đem các thứ trân báu này gởi cúng vào Chùa, trong khi của cải vật báu trong kho đã hết sạch. Theo pháp của các Vua thì lấy vật làm trọng. Vậy nay Thái Tử nên xét lại việc này, không nên để Đại Vương dùng hết.

Bấy giờ, Thái Tử ra lệnh cho người giữ kho, không được xuất vật báu ra cho Đại Vương dùng nữa. Lúc này nhà Vua tự biết là những vật mà mình đòi hỏi sẽ không được nữa, nên đem đồ đựng thức ăn bằng vàng cúng vào cho Chùa.

Thái Tử ra lệnh không cung cấp đồ đựng bằng vàng, mà cung cấp đồ bằng bạc. Sau khi Vua ăn xong lại gởi cúng vào cho Chùa. Lại không cung cấp đồ đựng bằng bạc, mà cung cấp đồ bằng đồng.

Vua cũng đem đồ này gởi cúng vào cho Chùa. Lại không cung cấp đồ đồng, mà cung cấp đồ gốm.

Lúc này trong tay nhà Vua chỉ có nửa trái A Ma Lặc, lòng buồn thương rơi lệ, Vua bảo các Đại Thần:

Hiện nay, ai là chủ đất này?

Bấy giờ, các Đại Thần bạch Đại Vương: Vua là chủ đất này.

Nhà Vua liền dùng kệ đáp:

Các ngươi hộ tâm ta,

Tại sao lại nói dối?

Ta đang ở Vương vị,

Lại không được tự tại!

Nửa trái A Ma Lặc,

Đang ở trong tay ta.

Nó là vật của ta,

Ở đây được tự do.

Phú quý đáng chán bỏ,

Than ôi! Lại tôn trọng!

Xưa cai trị Diêm Phù,

Nay bỗng dưng nghèo hèn.

Như Sông Hằng cuộn trôi,

Một đi không trở lại.

Phú quý cũng như vậy,

Qua rồi không trở lại.

Vua lập lại bài kệ như Phật đã dạy:

Phàm thịnh ắt có suy,

Vì suy là cứu cánh.

Nên Như Lai nói vậy,

Chân thật không sai khác.

Những lời dạy trước đây,

Nay tức thì thông suốt.

Nay có điều cầu cạnh,

Lại không vâng lời ta.

Như gió bị núi ngăn,

Như nước bị bờ cản.

Nay giáo lệnh của ta,

Từ đây tuyệt vĩnh viễn.

Theo sau, vô lượng chúng,

Đánh trống thổi loa ốc.

Thường chơi các kỹ nhạc,

Thụ hưởng vui năm dục.

Thể nữ hàng trăm người,

Ngày đêm ta khoái lạc.

Hôm nay đều không còn,

Như cây không hoa trái.

Tướng mạo dần khô kiệt,

Sắc lực cũng như vậy.

Như hoa dần héo tàn,

Nay ta cũng như vậy.

Bấy giờ, Vua A Dục bảo người hầu rằng: Nay ngươi, nếu còn nhớ ân nuôi dưỡng của ta, thì ngươi hãy đem nửa trái A Ma Lặc này gởi cúng vào cho Chùa Kê Tước, thay ta lễ bái sát chân các Tỳ Kheo Tăng, thưa rằng: Vua A Dục hỏi thăm các vị Đại Thánh, tôi là A Dục Vương, thống lãnh cõi Diêm Phù Đề này. Tất cả mọi sở hữu của tôi ở cõi Diêm Phù Đề, ngày nay bỗng dưng mất hết, không còn của quý nào để cúng dường cho Chúng Tăng nữa.

Đối với tất cả mọi thứ của cải, tôi không còn được tự tại, nay chỉ có nửa trái A Ma Lặc này là tôi được tự do. Đây là lần cuối cùng bố thí Ba La Mật, xin thương xót tôi mà thu nhận sự cúng dường này, khiến tôi được phước khi cúng dường Chúng Tăng.

Rồi nói kệ rằng:

Nửa trái A Ma Lặc,

Đây, sở hữu của ta.

Được tự tại đối ta,

Nay cúng dường đại chúng.

Tâm hướng về Thánh Chúng,

Không ai khác giúp ta.

Xin thương xót cho ta,

Nhận lấy A Ma Lặc.

Vì ta ăn quả này,

Nhờ phước vô lượng này.

Đời đời được diệu lạc,

Dụng không bao giờ hết.

Bấy giờ, người sứ giả kia, nhận lệnh của Vua rồi, liền đem nửa trái A Ma Lặc đi vào Chùa Kê Tước, đến trước Thượng Tọa, năm vóc gieo xuống đất làm lễ, quỳ gối chắp tay hướng lên Thượng Tọa mà nói kệ rằng:

Người thống lãnh Diêm Phù,

Một lọng, một tiếng trống.

Đi dạo không chướng ngại,

Như Trời chiếu thế gian.

Báo nghiệp hành đã đến,

Ở đời chẳng còn lâu.

Vua không còn uy đức,

Như mây che Mặt Trời.

Vua hiệu là A Dục,

Cúi đầu lễ chân Tăng.

Gởi cúng dường vật này,

Nửa trái A Ma Lặc.

Nguyện cầu phước đời sau,

Xin vì Vua, thương xót.

Thánh chúng vì thương Vua,

Nhận nửa trái cúng dường.

Bấy giờ, vị Thượng Tọa kia bảo đại chúng: Ai nghe những lời này mà không nhàm chán thế gian?

Chúng ta nghe việc này, không thể không sanh nhàm chán, xa lìa.

Như Kinh Phật đã dạy: Thấy sự suy giảm của người, nên sanh ra nhàm chán, xa lìa.

Nếu chúng sanh hiểu biết khi nghe việc này há không thể từ bỏ thế gian được sao?

Rồi nói kệ rằng:

Người trong đời, Vua nhất,

A Dục dòng Khổng Tước.

Tự tại Diêm Phù Đề,

Làm chủ A Ma Lặc.

Thái Tử cùng các thần,

Đoạt vật Vua bố thí.

Gởi nửa A Ma Lặc,

Hàng phục người tiếc của.

Khiến họ sanh tâm chán,

Người ngu không biết thí.

Được diệu lạc nhân quả,

Chỉ cúng nửa Ma Lặc.

Lúc ấy vị Thượng Tọa nghĩ như vậy: Làm thế nào để đem nửa trái A Ma Lặc này chia đều cho khắp tất cả Chúng Tăng được?

Sau đó bảo đem nghiền nát, bỏ vào trong nồi nấu lên, làm vậy xong tất cả Chúng Tăng đều được chia đủ cả.

Bấy giờ, Vua lại hỏi vị Đại Thần bên cạnh rằng: Ai là Vua cõi Diêm Phù Đề?

Đại Thần thưa Vua rằng: Chính Đại Vương.

Lúc ấy Vua đang nằm ngồi dậy, quay nhìn bốn phía, chắp tay làm lễ cảm niệm ân đức Chư Phật, lòng nghĩ miệng nói: Nay ta đem cõi Diêm Phù Đề này cúng dường cho Tam Bảo, tùy ý sử dụng.

Rồi nói kệ rằng:

Nay, Diêm Phù Đề này,

Nhiều trân bảo trang sức.

Cúng cho ruộng phước lành,

Tự nhiên được quả báo.

Đem công đức bố thí này,

Chẳng cầu Thiên Đế Thích.

Phạm Vương cùng nhân chủ,

Các diệu lạc Thế Giới.

Những quả báo như vậy,

Tôi đều không thụ dụng.

Nhờ công đức thí này,

Mà mau thành Phật Đạo.

Nơi tôn ngưỡng cho đời,

Thành được nhất thiết trí.

Làm bạn lành thế gian,

Là Đạo Sư bậc nhất.

Bấy giờ, nhà Vua đem những lời này viết lên trên giấy rồi phong kín lại, dùng răng cắn vào làm dấu ấn. Sau khi làm xong việc này, nhà Vua qua đời.

Bấy giờ, Thái Tử cùng các quần thần, cung nhân thể nữ, nhân dân trong nước dâng các thứ cúng dường, tống táng theo nghi thức của quốc vương, mà làm lễ trà tỳ.

Lúc này, các Đại Thần muốn lập Thái Tử lên nối ngôi vị Vua, nhưng trong triều có một Đại Thần tên là A Nậu Lâu Đà, nói với các quần thần rằng: Không được lập Thái Tử lên làm Vua.

Vì sao?

Vì Đại Vương A Dục lúc còn sanh tiền, vốn có nguyện đem mười vạn ức tiền vàng, làm công đức, nhưng còn thiếu bốn ức nữa, chưa đủ mười vạn. Vì muốn cho đủ số, nên nay cõi Diêm Phù Đề này đã được xả cúng cho Tam Bảo.

Nay Đại Địa này thuộc về Tam Bảo, làm sao mà lập làm Vua được?

Sau khi các Đại Thần nghe vậy, liền đem bốn ức tiền vàng cúng vào cho Chùa, sau đó liền lập con của Pháp Ích lên làm Vua tên là Tam Ba Đề. Kế đến nối tiếp vương vị là Thái Tử Tỳ Lê Ha Ha Đê.

Nối tiếp Vương vị Tỳ Lê Ha Ba Đê là Thái Tử Tỳ Lê Ha Tây Na. Nối tiếp Vương vị Tỳ Lê Ha Tây Na là Thái Tử Phất Sa Tu Ma. Nối tiếp Vương vị Phất Sa Tu Ma là Thái Tử Phất Sa Mật Đa La.

Bấy giờ Phất Sa Mật Đa La hỏi các vị Đại Thần rằng: Ta phải làm những việc gì để khiến cho danh đức của ta tồn tại mãi ở thế gian?

Lúc ấy, những vị hiền thần tin ưa Tam Bảo thưa Vua rằng: Đại Vương A Dục là quốc vương đầu tiên của dòng họ. Khi còn sống, Vua cho xây dựng tám vạn bốn ngàn Tháp Như Lai và phát tâm cúng dường đủ thứ, chính danh đức này lưu truyền mãi đến hôm nay.

Nếu Nhà Vua muốn cầu danh đức này thì cũng phải cho tạo lập tám vạn bốn ngàn Tháp và các thứ cúng dường.

Nhà Vua nói: Vì Đại Vương A Dục có oai đức lớn nên có khả năng thực hiện được những việc làm này, ta thì không thể nào làm được, hãy nghĩ đến việc khác đi.

Trong đó, có vị nịnh thần gian ác, không có lòng tin, tâu Vua:

Thế gian có hai loại pháp lưu truyền mãi ở đời không dứt: Một là làm lành, hai là làm ác. Đại Vương A Dục đã làm các hạnh lành, thì nay Vua nên làm các hạnh ác như phá hoại tám vạn bốn ngàn Tháp.

Lúc này Vua nghe theo lời vị nịnh thần, lập tức cho khởi bốn binh chúng đi đến các Chùa Chiền phá hoại các Tháp thờ.

Trước hết Vua đi vào Chùa Kê Tước, liền bị con sư tử đá trước cổng Chùa rống lên, làm cho Vua vô cùng kinh hoàng sợ hãi khi nghe nó và tự nghĩ: Không phải là loài thú thật, mà có thể rống lên được sao?

Vua trở về trong thành. Ba lần như vậy, nhà Vua muốn phá hoại Chùa này.

Bấy giờ, Vua cho gọi các Tỳ Kheo lại và hỏi các Tỳ Kheo: Ta phá hoại Tháp là thiện hay là pháp hoại Tăng phòng là thiện?

Tỳ Kheo đáp: Không nên làm cả hai. Nếu Vua muốn phá hoại chúng, thì thà phá hoại Tăng phòng, chớ nên phá hoại Tháp Phật. Lúc ấy Vua sát hại các Tỳ Kheo, cùng phá hoại các Tháp thờ và như vậy dần dần cho đến nước Bà Già La.

Lại ra sắc lệnh: Nếu có người nào mang được đầu Sa Môn Thích tử đến, sẽ được thưởng ngàn tiền vàng. Bấy giờ, trong nước này có một vị A La Hán hóa ra rất nhiều đầu Tỳ Kheo cho mọi người mang đến chỗ Vua, làm cho của báu trong kho tàng nhà Vua đều cạn hết. Khi nhà Vua nghe vị A La Hán đã làm những việc như vậy, thì càng nổi giận hơn, muốn giết vị A La Hán này.

Lúc này, vị A La Hán vào định Diệt tận nên nhà Vua dùng vô lượng cách để sát hại vị Thánh Nhân này, rốt cuộc cũng không thể được. Vì Ngài vào định diệt tận nên không thể làm tổn thương thân thể Ngài được và như vậy Vua tiến dần đến cửa Tháp Phật. Ở trong Tháp này có một vị quỷ thần đang ở để bảo vệ Tháp Phật tên là Nha Xỉ.

Vị quỷ thần này nghĩ rằng mình là đệ tử của Phật, vì thọ trì giới cấm không sát hại chúng sanh, nên nay mình không thể giết hại nhà Vua được.

Lại nghĩ: Có một vị thần tên là Trùng, mạnh mẽ hung bạo, thường làm các việc ác, cầu kết hôn con gái ta, ta không chịu. Nay vì để bảo vệ chánh pháp nên phải gả cho nó, khiến nó bảo Hộ Pháp Phật.

Liền kêu vị thần kia bảo rằng: Nay ta gả con gái cho ngươi, song cùng lập giao ước là ngươi phải hàng phục vị Vua này, chớ để ông ta tạo ra các việc ác, hoại diệt chánh pháp.

Lúc này chỗ Vua lại có một vị đại quỷ thần tên là Ô Trà, vì oai đức đầy đủ nên vị thần kia không thể làm gì Vua được. Lúc này thần Nha Xỉ muốn tìm cách hủy diệt sức mạnh tự nhiên hiện tại của Vua do vị thần này mang lại.

Nay ta nên giả làm thân với hắn và như vậy cùng làm bạn tri thức với vị thần kia. Sau khi kết bạn tri thức thân nhau rồi, liền dẫn vị thần này đến giữa biển lớn phương Nam.

Lúc đó thần Trùng mới sang dẹp núi lớn, xua đuổi bức bách từ trên Vua cho đến bốn binh chúng không ai là không chết hết.

Dân chúng đều reo hò: Sướng thay, sướng thay!

Và người đời cùng truyền nhau từ sướng thay này. Nhà Vua này mất rồi, dòng dõi Khổng Tước vĩnh viễn cáo chung từ đây.

Cho nên sự giàu sang, sung sướng ở thế gian không đáng để tham. Đại Vương A Dục là người có trí, giác ngộ cuộc đời là vô thường, thân mạng khó mà bảo tồn, của cải của năm nhà cũng như huyễn hóa.

Khi đã giác ngộ được điều này rồi, thì phải nỗ lực tinh tấn tạo các thứ công đức, cho đến lúc mạng chung tâm luôn nhớ đến Tam Bảo, niệm niệm không gián đoạn, không có gì phải luyến tiếc, chỉ có nguyện thành tựu rốt ráo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác thôi.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường