Phật Thuyết Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế âm Bồ Tát Quảng đại Viên Mãn Vô Ngại đại Bi Tâm đà La Ni - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Già Phạm Đạt Ma, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH

THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN

VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Già Phạm Đạt Ma, Đời Đường  

PHẦN BA  

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Thiên rằng: Tụng Chú này năm biến, lấy chỉ ngũ sắc làm sợi dây rồi chú vào hai mươi mốt biến kết làm hai mươi mốt gút rồi đeo ở cổ.

Đà La Ni này là điều mà chín mươi chín ức hằng hà sa Chư Phật đời quá khứ đã nói. Các Đức Phật ấy vì các hành nhân tu hành sáu độ chưa mãn túc, mau khiến cho được đầy đủ. Người chưa phát tâm bồ đề, mau khiến cho phát tâm. Nếu người Thanh Văn chưa chứng quả, mau khiến cho chứng. Nếu các Thần, Tiên, Người trong ba ngàn đại thiên thế giới chưa phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, mau khiến cho phát tâm.

Nếu các chúng sanh chưa được tín căn của đại thừa, dùng sức uy thần của Đà La Ni này cho nên khiến mầm pháp của hạt giống đại thừa được tăng trưởng. Dùng sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho chỗ tu của kẻ đó đều được thành tựu.

Chúng sinh nơi ba đường ác tam đồ, ở chỗ sâu kín tối tăm trong ba ngàn đại thiên thế giới nghe Chú này của ta đều được lìa khổ. Có các Bồ Tát chưa lên được Sơ Trụ, mau khiến cho được… cho đến khiến được Địa Thập Trụ, lại khiến cho được đến Phật Địa Buddha bhūmi, thành tựu ba mươi hai tướng với tám mươi tùy hình tốt đẹp.

Nếu người Thanh Văn nghe Đà La Ni này, một lần lọt qua lỗ tai, tu hành viết chép Đà La Ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ thì bốn quả Sa Môn chẳng cầu tự được.

Hoặc hay khiến cho núi, sông, vách đá, nước của bốn biển lớn… trong ba ngàn đại thiên thế giới phun vọt lên. Hay khiến cho núi Tu Di Sumeru với núi Thiết Vi lay động, lại khiến đập nát như bụi nhỏ… thảy đều khiến cho chúng sinh trong ấy phát tâm vô thượng bồ đề.

Nếu các chúng sanh trong đời hiện tại muốn cầu nguyện việc chi. Ở hai mươi ngày trong sạch giữ trai giới, tụng Đà La Ni này ắt được toại nguyện. Từ bờ mé sinh tử đến bờ mé sinh tử, tất cả nghiệp ác thảy đều diệt hết. Tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, bốn vị Thiên Vương, Thần, Tiên, Long Vương trong ba ngàn đại thiên thế giới thảy đều chứng biết.

Nếu các Người, Trời tụng trì Đà La Ni này. Nếu người đó tắm gội trong sông lớn, sông nhỏ, biển lớn … chúng sinh ở trong đó được nước tắm thân của người này ngấm dính vào thân thì tất cả tội nặng, nghiệp ác thảy đều tiêu diệt, liền được chuyển sinh về Tịnh Độ nơi phương khác, hóa sanh nơi hoa sen. Chẳng thọ thân trong thai, thân trong nơi ẩm ướt, thân trong trứng … huống chi là người thọ trì đọc tụng.

Nếu người tụng trì đi trên đường lộ. Lúc gió lớn thổi qua thân, lông, tóc, quần áo của người này, phần gió còn lại thổi xuống bên dưới thời các loại chúng sinh được gió lướt qua thân của người ấy thổi dính vào thân thì tất cả tội nặng nghiệp ác thảy đều diệt hết, chẳng chịu quả báo trong ba nẻo ác, thường sinh trước mặt Đức Phật. Nên biết quả báo phước đức của người thọ trì chẳng thể nghĩ bàn.

Trong miệng của người trì tụng Đà La Ni này, phát ra ngôn âm hoặc thiện hoặc ác, thời tất cả Thiên Ma, Ngoại Đạo, Trời, Rồng, Quỷ, Thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đều đối với người ấy khởi tâm cung kính, tôn trọng như Đức Phật.

Người trì tụng Đà La Ni này. Nên biết người ấy tức là Tạng Phật thân vì chín mươi chín ức hằng hà sa Chư Phật đã yêu tiếc.

Nên biết người ấy tức là Tạng Quang Minh vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu soi.

Nên biết người ấy là Tạng Từ Bi vì luôn dùng Đà La Ni cứu chúng sinh.

Nên biết người ấy là Tạng Diệu Pháp vì nhiếp hết tất cả cả môn Đà La Ni.

Nên biết người ấy là Tạng Thiền Định vì trăm ngàn tam muội thường hiện tiền.

Nên biết người ấy là Tạng Hư Không vì luôn dùng không tuệ quán chúng sinh.

Nên biết người ấy là Tạng Vô Úy vì Trời, Rồng, Thiện Thần thường hộ trì.

Nên biết người ấy là Tạng Diệu Ngữ vì trong miệng tuôn ra âm Đà La Ni không có đoạn tuyệt.

Nên biết người ấy là Tạng Thường Trụ vì tam tai ác kiếp chẳng thể hoại được.

Nên biết người ấy là Tạng Giải Thoát vì thiên ma, ngoại đạo chẳng thể ngăn cản.

Nên biết người ấy là Tạng Dược Vương vì thường dùng Đà La Ni trị bệnh cho chúng sinh.

Nên biết người ấy là Tạng Thần Thông vì được tự tại dạo chơi các Cõi Phật. Công đức người ấy, khen ngợi chẳng thể hết.

Thiện Nam Tử! Nếu lại có người chán ghét sự khổ ở thế gian, muốn cầu niềm vui sống lâu thì nên ở tại chốn Nhàn Tịnh, trong sạch kết giới, chú vào cái áo rồi mặc. Hoặc nước, hoặc thức ăn, hoặc hương, hoặc thuốc… đều chú một trăm lẻ tám biến rồi uống vào ắt sẽ được sống lâu.

Nếu hay như pháp kết giới, y theo pháp thọ trì thì tất cả thành tựu.

Pháp kết giới ấy là: Lấy con dao, chú vào hai mươi mốt biến rồi vạch đất làm giới hạn. Hoặc lấy nước sạch, chú vào hai mươi mốt biến rồi rưới rảy bốn phương làm giới hạn. Hoặc lấy hạt cải trắng, chú vào hai mươi mốt biến rồi ném rải bốn phương làm giới hạn.

Hoặc dùng tưởng đến nơi nào thì chỗ đó là giới hạn. Hoặc lấy tro sạch, chú vào hai mươi mốt biến rồi rải khắp làm giới hạn. Hoặc chú vào chỉ ngũ sắc hai mươi mốt biến rồi giăng vòng quanh bốn bên làm giới hạn đều được. Nếu hay như pháp thọ trì thì tự nhiên được quả.

Nếu người được nghe tên gọi của Đà La Ni này còn diệt được tội nặng trong vô lượng kiếp sinh tử, huống chi là người tụng trì.

Nếu người được Thần Chú này rồi tụng, nên biết người ấy đã từng cúng dường vô lượng Chư Phật, rộng gieo căn lành.

Nếu người hay vì chúng sinh bứt nhổ nạn khổ của họ, như pháp tụng trì. Nên biết người ấy là bậc có đủ đại bi, chẳng lâu sẽ thành Phật. Vì các chúng sinh đã được nhìn thấy, thảy đều tụng khiến cho chúng được nghe qua tai để cùng tạo nhân bồ đề thì người đó có công đức vô lượng vô biên, khen ngợi chẳng thể hết.

Nếu hay tinh thành, dùng tâm thân giữ gìn trai giới, vì tất cả chúng sanh sám hối tội của nghiệp trước cũng tự mình ăn năn tạ lỗi mọi loại nghiệp ác từ vô lượng kiếp đến nay, trong miệng gấp rút tụng Đà La Ni này, tiếng tiếng chẳng dứt, thì trong đời hiện tại liền chứng bốn quả Sa Môn.

Hàng lợi căn có phương tiện Tuệ Quán đạt được quả vị Thập Địa chẳng khó, huống chi là phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Hết thảy Nguyện Cầu không có gì không đạt được kết quả.

Nếu người muốn sai khiến quỷ. Lấy cái đầu lâu ở chốn hoang vắng, tẩy rửa sạch sẽ. Ở trước Tượng Thiên Nhãn thiết lập Đàn Trường, đem mọi thứ hương hoa, thức ăn uống cúng tế, ngày ngày như vậy, đúng bảy ngày ắt đến, hiện thân tùy theo người sai khiến.

Nếu muốn sai khiến bốn vị Thiên Vương, thì chú vào Đàn Hương rồi thiêu đốt. Do nguyện lực đại bi sâu nặng của Bồ Tát này, cũng vì uy thần rộng lớn của Đà La Ni này.

Đức Phật bảo: Này A Nan! Nếu có quốc thổ khởi tai nạn thời Quốc Vương của nước đó nên dùng chánh pháp trị nước, buông thả người vật, chẳng gây oan uổng cho chúng sinh, tha thứ cho các kẻ bị lỗi lầm.

Bảy ngày bảy đêm, thân tâm tinh tiến tụng trì Thần Chú Đại Bi Tâm Đà La Ni này sẽ khiến cho tất cả tai nạn trong đất nước thảy đều trừ diệt, ngũ cốc chín đầy, vạn họ an vui.

Nếu lại bị oán địch ở nước khác đi đến xâm nhiễu, trăm họ chẳng an. Quan đại thần mưu phản, dịch khí lưu hành, mưa nắng chẳng điều hòa. Mặt trời mặt trăng bị mất độ … lúc mọi thứ tai nạn như vậy khởi lên thời vị Vua ấy nên làm tượng Thiên Nhãn Đại Bi Tâm.

Hướng mặt về phương Tây đem mọi thứ hương hoa, phướng, phan, lọng báu hoặc thức ăn uống có trăm mùi vị, chí tâm cúng dường. Vị Vua ấy lại hay bảy ngày bảy đêm, thân tâm tinh tiến tụng trì Chương Cú thần diệu của Đà La Ni như vậy thì oán địch của nước ngoài tự hàng phục đều quay về chính trị chẳng gây nhiễu não, ngoại bang hòa hảo thương mến lẫn nhau.

Trong triều từ Vương Tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành, nơi cung vi phi tần thể nữ khởi lòng hiếu kính đối với Vua, các Thiên Long, Quỷ Thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió thuận hòa, mùa hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp.

Lại nếu trong nhà gặp bệnh đại ác, trăm điều quái dị tranh nhau khởi lên, quỷ thần tà ma ưa gây rối loạn. Trong nhà ấy, người ác ngang ngược dùng miệng lưỡi mưu hại nhau cho đến kẻ lớn người nhỏ, bên nội bên ngoại chẳng hòa thuận …

Thời nên hướng về Tượng Thiên Nhãn Đại Bi, thiết lập Đàn Trường trước mặt Tượng ấy, chí tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng Đà La Ni này mãn một ngàn biến thì việc ác như trên thảy đều tiêu diệt, vĩnh viễn được an ổn.

A Nan bạch Phật rằng: Thế Tôn! Chú này tên gọi như thế nào?

Thọ trì như thế nào?

Đức Phật bảo: Này A Nan! Thần Chú như vậy có mọi thứ tên gọi là:

Một tên là: Quảng Đại Viên Mãn.

Một tên là: Vô Ngại Đại Bi.

Một tên là: Cứu Khổ Đà La Ni.

Một tên là: Diên Thọ Đà La Ni.

Một tên là: Diệt Ác Thú Đà La Ni.

Một tên là: Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni.

Một tên là: Mãn Nguyện Đà La Ni.

Một tên là: Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni.

Một tên là: Tốc Siêu Thượng Địa Đà La Ni.

Như vậy mà thọ trì.

A Nan bạch Phật rằng: Thế Tôn! Tên gọi của Bồ Tát Ma Ha Tát là nhóm nào mà khéo hay tuyên nói Đà La Ni như vậy?

Đức Phật nói: Bồ Tát này có tên là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng có tên là Nhiên Sách, cũng có tên là Thiên Quang Nhãn.

Thiện Nam Tử! Quán Thế Âm Bồ Tát có có sức uy thần chẳng thể luận bàn. Trong vô lượng kiếp ở đời quá khứ đã là Phật có hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Do nguyện lực đại bi, vì muốn phát khởi cho tất cả Bồ Tát, an vui thành thục cho các chúng sanh cho nên hiện làm Bồ Tát.

Các ông, đại chúng, các Bồ Tát Ma Ha Tát, Phạm Vương, Đế Thích, Rồng, Thần đều nên cung kính, đừng sinh khinh mạn. Tất cả Người, Trời thường nên cúng dường, chuyên xưng danh hiệu sẽ được vô lượng phước, diệt vô lượng tội, khi mạng chung sinh về Cõi Phật A Di Đà.

Đức Phật bảo: Này A Nan! Thần Chú do Quán Thế Âm Bồ Tát đã nói là chân thật không hư dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát này đến thì chú vào hương Chuyết Cụ La hai mươi mốt lần rồi thiêu đốt ắt Bồ Tát liền đến. Chuyết Cụ La Hương là An Tất Hương.

Nếu có người bị Miêu Nhi một loại ma mèo bám dính. Lấy Nhĩ Lý Tra Na Xương đầu của con mèo đã chết thiêu đốt thành tro, rồi hòa với bùn đất sạch, nắn làm hình con mèo.

Ở trước tượng thiên nhãn, chú vào con dao bằng thép đã tôi luyện một trăm lẻ tám biến rồi mỗi mội chặt đứt từng đoạn, cũng thành một trăm lẻ tám đoạn. Cứ mỗi một lần thì chú một lần và xưng tên ấy, liền khỏi, chẳng bị bám dính nữa.

Nếu người bị Cổ Độc Chất độc của loài sâu trùng gây hại. Lấy Dược Kiếp Bố La Long Não Hương hòa với hương Chuyết Cụ La An Tất Hương, mỗi thứ bằng nhau, hòa chung với một thăng nước hoa trong giếng Tĩnh Hoa Thủy rồi nấu sắc còn một chén. Ở trước Tượng Thiên Nhãn chú vào một trăm lẻ tám biến rồi uống vào liền khỏi.

Nếu người bị rắn ác, bò cạp cắn. Lấy bột Càn Khương gừng già, chú vào hai mươi mốt biến rồi bôi lên chỗ bị sưng, lập tức trừ khỏi.

Nếu người bị oán ác hăng hái mưu hại, lấy đất sạch, hoặc bột gạo, hoặc sáp ong nắn thành hình kẻ ấy. Ở trước Tượng Thiên Nhãn, chú vào con dao bằng thép đã tôi luyện một trăm lẻ tám biến, một lần chú, một lần chặt cắt một lần xưng tên kẻ ấy rồi thiêu đốt, hết một trăm lẻ tám đoạn thời kẻ ấy liền vui vẻ, trọn đời hậu trọng cùng yêu kính nhau.

Nếu có người bị bệnh, hư hoại tròng con mắt. Hoặc bị mù lòa, đui tối. Hoặc mắt bị trắng đục, mắt kéo màng đỏ khong thấy ánh sáng. Lấy ba loại quả Ha Lê Lặc, quả Am Ma Lặc, quả Tỳ Hề Lặc, mỗi thứ một quả đem đâm giã nghiền nhỏ.

Lúc nghiền thời chỉ cần giữ cho sạch hộ tịnh đừng để cho phụ nữ mới sinh với loài heo chó nhìn thấy, trong miệng niệm Phật. Dùng Bạch Mật hoặc nước cốt của sữa người hòa chung rồi đắp trong mắt. Lấy sữa của người, cần yếu là sữa của bà mẹ sinh con trai, nếu là sữa của bà mẹ sinh con gái thì chẳng thành.

Khi hòa xong thuốc ấy lại nên ở trước Tượng thiên nhãn chú vào một ngàn không trăm lẻ tám biến rồi bôi trong mắt mãn bảy ngày. Người bệnh nên ở trong nhà sâu kín, cẩn thận gió máy thời tròng con mắt được sinh trở lại. Các chứng mắt mù, mắt bị trắng đục đều được tràn đầy ánh sáng.

Nếu người bị bệnh sốt rét. Lấy da của cọp, beo, chó sói… chú vào hai mươi mốt biến rồi khoác trên thân liền khỏi bệnh. Da của Sư Tử là tối thượng.

Nếu bị rắn cắn. Lấy chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn, chú vào hai mươi mốt biến rồi bôi trong chỗ bị sưng lên, liền khỏi.

Nếu người bị chứng sốt rét ác tính nhập vào tim. Mê man muốn chết. Lấy một viên chất nhựa của cây đào, lớn nhỏ cũng như trái đào thật lớn, đem hòa với một thăng nước sạch rồi chưng cất lấy nửa thăng, chú vào bảy biến rồi mau chóng cho uống hết liền khỏi bệnh. Thuốc ấy đừng để cho phụ nữ chưng cất.

Nếu người bị khí của Truyền Thi Quỷ ẩn nấp gây bệnh lâu dài. Lấy hương Chuyết Cụ La, chú vào hai mươi mốt biến thiêu đốt rồi xông vào trong lỗ mũi.

Lại lấy bảy viên như miễn phẩn?

Lớn bằng lóng tay cái chú vào hai mươi mốt biến rồi nuốt vào liền khỏi, cẩn thận tránh rượu thịt, ngũ tân với mắng chửi ác độc.

Nếu lấy Ma Na Thỉ La Hùng Hoàng hòa với hạt cải trắng, ấn thành muối hột, chú vào hai mươi mốt biến rồi thiêu đốt dưới giường của người bệnh thì loài ma gây bệnh ấy liền bị kéo bung ra, bỏ chạy chẳng dám ở lại.

Nếu người bị điếc tai, chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong lỗ tai, liền khỏi.

Nếu người bị chứng Thiên Phong, bại xụi một bên. Tai, mũi chẳng thông, tay chân chẳng tiện dùng. Lấy dầu mè, Thanh Mộc Hương Mộc đã được chưng cất, chú vào hai mươi mốt biến rồi xoa lau trên thân thì được khỏi hẳn bệnh.

Lại có cách, lấy Ngưu Tô thuần chất, chú vào hai mươi mốt biến rồi xoa bôi, cũng khỏi.

Nếu có người nữ sinh sản khó. Lấy dầu mè, chú vào hai mươi mốt biến rồi xoa trong rốn với ngọc môn cửa mình của sản phụ, liền sinh đẻ dễ dàng.

Nếu có người nữ mang thai mà đứa con bị chết trong bụng. Lấy cỏ A Bà Mạt Lợi Ngưu Tất hòa với hai thăng nước sạch trong một cơn mưa lớn, chưng nấu loại bỏ cặn, lấy một thăng, chú vào hai mươi mốt biến rồi cho uống thì thai nhi liền xuất ra không có đau đớn. Nếu thai nhi chẳng ra, cũng uống thuốc này liền thoát ra khỏi bệnh.

Nếu người bị đau nhức tim chẳng thể chịu nổi, gọi là Độn Thi Chú. Lấy hương Quân Trụ Lỗ Huân Lục Hương như đầu vú thành một viên, chú vào hai mươi mốt biến, nhấm trong miệng rồi giữ ở cổ họng, chẳng kể nhiều ít, xong khiến nhổ ra liền khỏi. Cẩn thận tránh ngũ tân, rượu thịt.

Nếu có người bị lửa đốt thành nhọt. Lấy Cồ Ma Di Phân bò đen nóng, chú vào hai mươi mốt biến rồi xoa trên nhọt liền khỏi.

Nếu có người bị giun sâu cắn tim. Lấy nửa thăng Cốt Lỗ Mạt Già nước tiểu của con ngựa trắng, chú vào hai mươi mốt biến rồi uống vào liền khỏi. Nếu bệnh nặng thì lấy một thăng ắt sâu trùng liền cuộn lại như sợi dây tuôn ra. Nếu người bị Đinh Sang.

Lấy lá Lăng Tỏa?

Lăng Tiêu đâm lấy nước cốt rồi chú vào hai mươi mốt biến, nhỏ dính trên nhọt liền nhổ bứt rễ ra, tức khỏi.

Nếu người bị chất độc của ruồi nhặng dính trong mắt. Lấy Cốt Lỗ Đát Khư Phân mới của con lừa lược vắt lấy nước, gia trì chú hai mươi mốt biến, ban đêm trước khi ngủ, bôi trong mắt, liền khỏi.

Nếu người bị bệnh đau nhức trong bụng. Lấy nước hoa trong giếng hòa với hai mươi hạt muốt hột, chú vào hai mươi mốt biến rồi uống nửa thăng liền khỏi bệnh.

Nếu người bị bệnh mắt đỏ với trong mắt có thịt dư, mắt kéo màng. Lấy lá Xa Xa Di Lá Cẩu Kỷ đâm quết, lọc lấy nước cốt, chú vào hai mươi mốt biến rồi tẩm vào đồng tiền lên meo xanh một đêm, xong chú vào bảy biến, đắp trong mắt liền khỏi.

Nếu người sợ ban đêm, khiếp sợ chẳng yên, ra vào kinh hãi. Lấy chỉ trắng làm sợi dây, chú vào hai mươi mốt biến, thắt hai mươi mốt gút rồi buộc trên cổ liền trừ bỏ sợ hãi. Chẳng những chỉ trừ bỏ nỗi sợ, cũng được diệt tội.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần