Phật Thuyết Kinh Thuần đà Chân đà La Sở Vấn Như Lai Tam Muội - Phần Năm
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Chi Lâu Câu Sấm, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH
THUẦN CHÂN ĐÀ LA SỞ VẤN
NHƯ LAI TAM MUỘI
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư
Chi Lâu Câu Sấm, Đời Hậu Hán
PHẦN NĂM
Các Bồ Tát, các Tỳ Kheo Tăng đem lọng hoa đến cúng dường Chư Phật.
Thuần Chân Đà La Nghĩ: Muốn thỉnh Phật và chư hóa Phật cùng Bồ Tát, Tỳ Kheo Tăng đến núi Hương, muốn làm cho những người trong cung thất của mình và Chư Thiên, Quỷ Thần đều được nghe pháp và được an vui, với mục đích làm cho họ thấy rõ việc cúng dường Phật làm điều căn bản, nhờ đó được phước đức.
Thuần Chân Đà La đứng dậy, lạy sát đất, thưa Phật: Xin thỉnh Như Lai, chư Bồ Tát cùng chúng Tỳ Kheo đến núi Hương. Chúng con xin cúng dường thức ăn uống bảy ngày để mọi người nhờ đó mà tăng trưởng công đức.
Đức Phật im lặng nhận lời. Thuần Chân Đà La rất vui mừng, liền trở về chỗ ngồi cùng tám vạn bốn ngàn người đánh đàn, tấu nhạc để cúng dường Phật, và sau đó lạy Phật rồi trở về núi Hương.
Cung điện của Thuần Chân Đà La dài rộng ba vạn dặm, có thể đón nhận Phật và những người theo đến. Tường vách, đất cung điện màu xanh pha lê, dùng vàng ròng trời rải trên đất, ở giữa treo xen lẫn vô số châu báu.
Có đầy đủ giường ngồi, chân giường làm bằng châu báu nổi tiếng. Dùng vải lụa trời làm đường viền. Tòa của Phật cao một ngàn ba trăm dặm, trang hoàng bằng ngọc châu, lan can bằng vật báu và xung quanh treo cờ lọng cũng bằng vật báu, có hương đốt rất thơm dịu, phía trên có cờ phướn che phủ. Hoa trời rải đầy trên đất. Gần chỗ Đức Phật ngồi, có bốn vạn cây bằng châu báu.
Thuần Chân Đà La Nói với quyến thuộc trong cung: Đức Phật rất khó gặp, ví như hoa Ưu Đàm Bát. Nay đã được gặp thì hãy cúng dường cho thật tốt, bỏ những ganh ghét, dua nịnh, tham lam. Ai loạn tâm, nên chánh niệm.
Hãy chí tâm cúng dường, đem đủ loại hoa thơm đẹp dâng cúng dường. Đem hương thơm của Chiên Đàn đến núi, hương xông đốt để cúng dường Thế Tôn và trỗi những âm nhạc hòa nhã rất hay. Thuần Chân Đà La ưa thích gì thì nên làm để cúng dường, vì Đức Phật là bậc tối tôn trong loài người.
Đem lọng hoa, cờ lụa và y phục đặc biệt đẹp đẽ với vô số màu sắc ở Cõi Trời dâng cúng dường. Đức Phật rất khó gặp, ai cúng dường Ngài thì đời sau được sinh làm Tứ Vương, Đế Thích, Phạm Thiên. Nếu làm như vậy thì được thân hình có nhiều tướng tốt, sống lâu, giàu có, tự tại, dung mạo đẹp đẽ không ai sánh bằng, tiếng tốt đồn xa.
Người nào cúng dường Phật thì được công đức như vậy. Nếu ở Cõi Trời thì được an lạc. Được an ổn như vậy đều do cúng dường Phật mà đạt được. Nếu muốn được đạo Bích Chi Phật, Thanh Văn, Bồ Tát, nhờ cúng dường Phật mà có thể hàng phục quân ma.
Thuần Chân Đà La dạy bảo quyến thuộc trong cung như vậy và tất cả đều tuân mệnh, đem đầy đủ các thứ hương hoa, chế biến trăm món thức ăn ngon thơm. Ở phía Nam núi Hương, các kỹ nhạc đánh đàn.
Việc làm đã xong, sự mong ước đã mãn nguyện, tiếng đàn nghe vui vẻ vừa ý, ai cũng muốn được an ổn hoan hỷ, tướng mạo thường tịch, mỉm cười với mọi người. Sự tôn kính ấy không gì che lấp được. Chư Thiên, A tu la đều cúng dường.
Thưa đã đến giờ, xin phiền Ngài, bậc đã nắm giữ mười lực thù thắng, không ai có thể sánh kịp, hàng phục ngoại đạo, làm cho mọi người được lợi ích. Tâm đã thanh tịnh, dứt các trần cấu.
Thưa đã đến giờ, xin phiền Ngài, bậc đã không chút bụi trần, công đức không thể đếm nổi, ý rất tôn nghiêm cùng tận, sinh nơi giàu có tôn quý, bước đi của Ngài không ai theo kịp.
Thưa đã đến giờ, xin phiền Ngài, bậc đã vĩnh viễn không bước vào ba đường ác nữa, không còn trở lại, vứt bỏ tất cả. Ai thay Ngài cũng đều hoan hỷ. Ánh sáng của Ngài sáng hơn ánh sáng của những vì sao, mặt trời, mặt trăng.
Ánh sáng của Thích, Phạm không sánh bằng. Ánh sáng ấy sáng khắp, vượt hơn ba cõi, ai thấy ánh sáng ấy giống như trong chỗ tối tăm được thấy ngọn đuốc, ai nấy đều vui mừng. Ánh sáng nào cũng bị che lấp, chỉ có ánh sáng của Ngài không chỗ nào không chiếu tới.
Tất cả kỹ nhạc của Chư Thiên, Long… không vui thích nên không được giải thoát, ngày càng bị cấu bẩn. Nếu ai nghe tiếng của Đức Phật thì ai nấy đều được giải thoát, trừ sạch cấu bẩn. Các lương y khắp mười phương cũng không thể nào diệt trừ cấu bẩn nơi tâm người ấy được.
Phật là Bậc Lương Y, ai nghe đến Ngài thì tâm cấu bẩn liền được tiêu sạch và an lạc. Phật là Đấng Chí Tôn trong các bậc tôn quý, không ai có thể sánh bằng. Lời nói của Ngài thanh tịnh, hoàn toàn chân thật. Tất cả kẻ xấu ác đều hàng phục.
Thưa đã đến giờ, xin phiền Ngài, bậc xưa đã thực hành bố thí, nay đang bố thí, tương lai sẽ lấy pháp bố thí. Xưa đã tu hành giữ giới thanh tịnh, tự đạt đến an lạc giải thoát, do kiềm giữ tâm và nhẫn nhục mà được thành tựu.
Thưa đã đến giờ, xin phiền lòng Ngài, bậc đã an trụ trong tinh tấn, tự vui bằng thiền định. Tâm của Ngài đã an định, dùng ánh sáng trí tuệ để quán sát, tâm luôn hoan hỷ.
Thưa đã đến giờ, xin phiền lòng Ngài, bậc từ bi bình đẳng với tất cả. Sự yêu thương ấy vượt qua các oán hận, công đức ấy quá hơn Phạm Thiên.
Thưa đã đến giờ, xin phiền lòng Ngài… Đức Phật dạy các Tỳ Kheo Tăng hãy ôm bát đến nhà người thỉnh mời, mãn bảy ngày rồi về.
Bồ Tát Đề Vô Ly nghĩ: Muốn làm xe giao lộ ngang dọc bốn trăm dặm, ở giữa có hoa sen để cho Đức Phật, các Bồ Tát và Tỳ Kheo Tăng, mỗi vị ngồi trên mỗi hoa sen, đến núi Hương.
Thế rồi, Bồ Tát liền nhập vào tam muội, tức thời sự việc đã diễn ra theo ý.
Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nay đã có xe giao lộ, xin Ngài hãy đến đó. Đức Phật ngồi trên hoa sen, tòa sen ấy cao bốn trượng chín thước. Các Bồ Tát và Tỳ Kheo Tăng cũng đều ngồi trên hoa sen như đã nói.
Vì sao?
Vì Bồ Tát đã cung thỉnh xin chư vị hãy thương xót mà đến an tọa.
Các Bồ Tát đã an tọa xong, Bồ Tát Đề Vô Ly dùng tay phải tự vận dụng thần thông bưng các hoa sen đi. Thấy oai thần biến hóa của Bồ Tát Đề Vô Ly như vậy, các vị Trời ở Cõi Dục, Cõi Sắc đều đem kỹ nhạc, hương hoa đến núi Hương để cúng dường.
Từ nơi xa, Thuần Chân Đà La thấy Phật đang ngồi trên xe giao lộ, biết Ngài đã đến, Thuần Chân Đà La bảo tám vạn bốn ngàn Chân Đà La, Kiền Đà La đem hương hoa và đánh đàn, tấu các âm nhạc đến trước đón Phật, thỉnh mời vào cung. Đến nơi, Đức Phật thăng tòa, các Bồ Tát, Tỳ Kheo Tăng cũng đều an vị.
Thuần Chân Đà La Nói với Thích, Phạm, Tứ Thiên Vương: Đã làm xong đầy đủ. Hãy sắp bày tất cả ra.
Mọi người trong cung đều mang thức ăn uống đến cúng dường. Sau khi ăn uống và rửa tay xong, Thuần Chân Đà La đặt ghế nhỏ ngồi trước Phật, nghe Ngài nói pháp.
Phật dạy Bồ Tát Đề Vô Ly: Bồ Tát phụng hành bố thí Ba la mật có ba mươi hai việc hành trì thanh tịnh.
Ba mươi hai việc đó là gì?
1. Bồ Tát bố thí muốn cầu thành Phật phải lấy việc phát tâm làm gốc.
2. Bồ Tát bố thí sẽ lìa đạo A La Hán, Bích Chi Phật.
3. Bồ Tát bố thí nghĩ muốn độ thoát chúng sinh khắp mười phương.
4. Bồ Tát bố thí cho người, tâm không hối hận.
5. Bồ Tát bố thí cho người, xem họ như Phật.
6. Bồ Tát bố thí cho người, tâm không bỏn sẻn.
7. Bồ Tát bố thí cho người, tâm không loạn mà đem cho một cách hoan hỷ.
8. Bồ Tát bố thí cho người bằng chính tay mình đưa.
9. Bồ Tát bố thí cho người với ý rộng rãi, không hẹp hòi.
10. Bồ Tát bố thí cho người, không mong cầu muốn có chỗ sinh.
11. Bồ Tát bố thí cho người với lòng không mong cầu.
12. Bồ Tát bố thí cho người, không mong cầu đạt được tư hữu, mà phải theo lời dạy trong Kinh Phật.
13. Bồ Tát bố thí cho người vì ưa thích Kinh Phật.
14. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn cầu Phật đạo.
15. Bồ Tát bố thí cho người, không cao ngạo.
16. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn chỉ dạy mọi người.
17. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn cứu độ chúng sinh.
18. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn đem giáo pháp chỉ dạy chúng sinh.
19. Bồ Tát bố thí cho người vì thuận theo lời Phật dạy.
20. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn hàng phục quân ma.
21. Bồ Tát bố thí cho người vì cầu thành tựu quả Phật.
22. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn cầu làm người hùng mạnh trong loài người.
23. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn bít lấp đường ngạ quỷ.
24. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn đời sau tu tập bố thí.
25. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn đời sau được an vui, giàu sang.
26. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn đời sau được đắc đạo Bồ Tát.
27. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn luôn luôn gần gũi thầy tốt.
28. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn đời đời hòa hợp, hướng về chúng sinh khắp mười phương.
29. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn thành tựu Phật đạo.
30. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn thành tựu đạo Bồ Tát.
31. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.
32. Bồ Tát bố thí cho người vì muốn thành tựu cảnh giới trang nghiêm, muốn hướng về Phật, thâm nhập các Kinh.
Đó là ba mươi hai việc Bồ Tát bố thí thanh tịnh. Bồ Tát nên hành bố thí Ba la mật như vậy.
Bồ Tát hành thanh tịnh giới Ba la mật có ba mươi hai việc.
Ba mươi hai việc đó là gì?
1. Nẻo hành nơi thân, Bồ Tát luôn thanh tịnh. Đó là giữ giới.
2. Bồ Tát trừ bỏ xan tham, sân giận, ngu si, nói lời trong sạch. Đó là giữ giới.
3. Tâm Bồ Tát khi hành động rất sáng suốt, có trí tuệ, không dối gạt Phật. Đó là giữ giới.
4. Bồ Tát không theo ngoại đạo để hành mười điều. Đó là giữ giới.
5. Bồ Tát dù sinh lên Cõi Trời hay nhân gian cung không bao giờ lìa bỏ Phật đạo. Đó là giữ giới.
6. Bồ Tát lìa xa pháp tu của hàng La Hán, Bích Chi Phật nhưng không coi thường các vị ấy. Đó là giữ giới.
7. Bồ Tát tránh xa kẻ dua nịnh, thể nhập vào trí tuệ của Phật. Đó là giữ giới.
8. Bồ Tát học nhiều, có trí tuệ, tâm là đệ nhất. Đó là giữ giới.
9. Bồ Tát rất có lòng từ bi, luôn nghĩ đến chúng sinh khắp mười phương. Đó là giữ giới.
10. Bồ Tát cứu giúp chúng sinh khắp mười phương để họ được đầy đủ. Đó là giữ giới.
11. Bồ Tát không phạm giới cấm, lìa khỏi các xấu hổ. Đó là giữ giới.
12. Việc làm của Bồ Tát không hư thiếu, luôn cẩn thận. Đó là giữ giới.
13. Bồ Tát không phạm trung đạo, không hành trái với bản tâm. Đó là giữ giới.
14. Bồ Tát tự giữ lấy mình, không phạm đến chúng ma. Đó là giữ giới.
15. Bồ Tát y theo những lời dạy sáng suốt để thoát khỏi đường ác. Đó là giữ giới.
16. Bồ Tát giữ giới được sinh Thiên. Đó là giữ giới.
17. Bồ Tát muốn đầy đủ trí tuệ của Phật. Đó là giữ giới.
18. Bồ Tát giữ giới chặt chẽ, không trái lời Phật dạy. Đó là giữ giới.
19. Bồ Tát không tự cao, khinh chê người khác, luôn tự kiềm chế mình. Đó là giữ giới.
20. Bồ Tát tự kiềm chế tâm mình, không chạy theo ái dục. Đó là giữ giới.
21. Bồ Tát giữ giới đúng lời Phật dạy. Đó là giữ giới.
22. Bồ Tát giữ giới có lòng tin, khuyến khích, giúp đỡ, ưa thích không lừa dối. Đó là giữ giới.
23. Bồ Tát không tham lam, keo kiệt. Đó là giữ giới.
24. Bồ Tát giữ giới chắc chắn theo pháp giáo hóa. Đó là giữ giới.
25. Bồ Tát vứt bỏ tài sản phú quý, muốn làm Sa Môn. Đó là giữ giới.
26. Bồ Tát ưa thích ở chỗ thanh vắng, thích giáo pháp. Đó là giữ giới.
27. Bồ Tát không tham ăn uống, y phục, vì muốn nhập đạo. Đó là giữ giới.
28. Bồ Tát dứt bỏ các điều ác, thành tựu các công đức. Đó là giữ giới.
29. Bồ Tát biểu hiện chuyên cần, lìa xa dòng họ, giữ đức công hạnh. Đó là giữ giới.
30. Bồ Tát thâm nhập pháp hạnh thâm diệu mà không vướng mắc. Đó là giữ giới.
31. Bồ Tát tu hành mười hai nhân duyên theo thứ lớp. Đó là giữ giới.
32. Bồ Tát không theo ngoại đạo, lìa bốn điên đảo. Đó là giữ giới.
Đó là ba mươi hai việc Bồ Tát giữ giới thanh tịnh. Bồ Tát thanh tịnh nên hành giữ giới Ba la mật như vậy.
Bồ Tát thanh tịnh hành nhẫn nhục Ba la mật có ba mươi hai việc.
Ba mươi hai việc đó là gì?
1. Bồ Tát không ham thích bản thân. Đó là nhẫn nhục.
2. Bồ Tát không nuối tiếc tuổi thọ. Đó là nhẫn nhục.
3. Bồ Tát không ôm lòng sân giận với người. Đó là nhẫn nhục.
4. Bồ Tát nhẫn nhục chịu đựng nếu có người mắng chửi, mạ nhục. Đó là nhẫn nhục.
5. Nếu thấy người bệnh hoạn ốm yếu thì Bồ Tát thương yêu họ. Đó là nhẫn nhục.
6. Bồ Tát không khinh thường người không được dạy dỗ. Đó là nhẫn nhục.
7. Tuy là giàu sang tôn quý, nhưng Bồ Tát chịu để người khinh khi. Đó là nhẫn nhục.
8. Bồ Tát bị người làm hại nhưng không sân giận, oán hờn. Đó là nhẫn nhục.
9. Bồ Tát không có tâm sân hận với người. Đó là nhẫn nhục.
10. Bồ Tát bị người hại, khiến phải đi vào đường nhơ, nhưng tâm không thoái chuyển. Đó là nhẫn nhục.
11. Bồ Tát ưa thích và tin tưởng Phật đạo, tâm không biếng nhác. Đó là nhẫn nhục.
12. Tâm Bồ Tát không loạn động, luôn luôn thanh tịnh. Đó là nhẫn nhục.
13. Bồ Tát không bao giờ sân giận người. Đó là nhẫn nhục.
14. Bồ Tát bảo hộ người mà tâm không nghĩ đến việc ấy. Đó là nhẫn nhục.
15. Bồ Tát luôn đem tâm hòa nhã với người. Đó là nhẫn nhục.
16. Bồ Tát luôn đem tâm thương yêu mọi người. Đó là nhẫn nhục.
17. Bồ Tát không tự thị, cống cao với người. Đó là nhẫn nhục.
18. Bồ Tát luôn khiêm hạ với chúng sinh khắp mười phương. Đó là nhẫn nhục.
19. Bồ Tát không hành động sân giận với người. Đó là nhẫn nhục.
20. Bồ Tát tự kiềm chế mình, không xúc phạm đến ai. Đó là nhẫn nhục.
21. Bồ Tát luôn kiềm giữ tâm để không cho ý vọng khởi. Đó là nhẫn nhục.
22. Bồ Tát thấy mình có lỗi thì tự sám hối, quở trách chính mình. Đó là nhẫn nhục.
23. Bồ Tát không quan tâm đến điều tốt xấu của người. Đó là nhẫn nhục.
24. Bồ Tát luôn thích nhớ nghĩ đến Phật đạo. Đó là nhẫn nhục.
25. Bồ Tát thích hiểu biết rõ về giáo pháp. Đó là nhẫn nhục.
26. Bồ Tát yêu thương chúng sinh khắp mười phương. Đó là nhẫn nhục.
27. Bồ Tát luôn muốn bố thí cho chúng sinh mười phương. Đó là nhẫn nhục.
28. Bồ Tát luôn đem tâm hòa nhã với chúng sinh. Đó là nhẫn nhục.
29. Bồ Tát thích an ủi người. Đó là nhẫn nhục.
30. Bồ Tát theo học giáo pháp, không gián đoạn bỏ dở nửa chừng. Đó là nhẫn nhục.
31. Bồ Tát nghe được ba pháp đối trị không sợ hãi. Đó là nhẫn nhục.
32. Bồ Tát không từ đâu sinh vui thích trí tuệ.
Đó là ba mươi hai việc Bồ Tát hành nhẫn nhục thanh tịnh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tam Muội Niệm Phật - Phẩm Hai - Bản Sự Của Bồ Tát Bất Không Kiến - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Hưng Khởi Hạnh - Phật Thuyết Kinh Nhân Duyên Kiếp Trước Phải ăn Lúa Ngựa
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Sáu Mươi Bảy - Kinh Vợ Chồng ăn Bánh
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Thế Ký - Phẩm Hai - Uất ðan Viết
Phật Thuyết Kinh Chư Pháp Tập Yếu - Phẩm Ba Mươi Bốn - Diệu Lạc