Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Năm - Phẩm Biện đại Thừa - Phần Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM MƯỜI NĂM

PHẨM BIỆN ĐẠI THỪA  

PHẦN SÁU  

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ Bậc thứ năm là Cực Nan Thắng, phải xa lìa mười pháp.

Những gì là mười?

Một là phải xa lìa nhà ở, hai là phải xa lìa Bí Sô Ni, ba là phải xa lìa nhà keo kiệt, bốn là phải xa lìa chúng hội tranh cãi, năm là phải xa lìa sự khen mình chê người, sáu là phải xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện, bảy là phải xa lìa sự tăng thượng kiêu mạn ngạo nghễ, tám là phải xa lìa sự điên đảo, chín là phải xa lìa sự do dự, mười là phải xa lìa tham, sân, si.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ Bậc thứ năm là Cực Nan Thắng, phải thường xa lìa mười pháp như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ Bậc thứ sáu là Hiện Tiền, phải viên mãn sáu pháp.

Những gì là sáu?

Một là phải viên mãn bố thí Ba la mật đa, hai là phải viên mãn tịnh giới Ba la mật đa, ba là phải viên mãn an nhẫn Ba la mật đa, bốn là phải viên mãn tinh tấn Ba la mật đa, năm là phải viên mãn tịnh lự Ba la mật đa, sáu là phải viên mãn bát nhã Ba la mật đa. Lại phải xa lìa sáu pháp.

Những gì là sáu?

Một là phải xa lìa tâm Thanh Văn, hai là phải xa lìa tâm Độc Giác, ba là phải xa lìa tâm nhiệt não, bốn là thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng bực bội lo lắng, năm là bỏ vật sở hữu tâm không lo buồn hối tiếc, sáu là đối với kẻ đến cầu xin, hoàn toàn chẳng kiêu ngạo dối gạt.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ Bậc thứ sáu là hiện tiền, phải viên mãn sáu pháp như vậy và phải xa lìa sáu pháp như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở Bậc thứ bảy là Viễn Hành, phải xa lìa hai mươi pháp.

Những gì là hai mươi?

Một là phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp cái biết, chấp cái thấy.

Hai là phải xa lìa chấp đoạn.

Ba là phải xa lìa chấp thường.

Bốn là phải xa lìa chấp tướng.

Năm là phải xa lìa chấp nhân kiến.

Sáu là phải xa lìa chấp danh sắc.

Bảy là phải xa lìa chấp uẩn.

Tám là phải xa lìa chấp xứ.

Chín là phải xa lìa chấp giới.

Mười là phải xa lìa chấp Thánh đế.

Mười một là phải xa lìa chấp duyên khởi.

Mười hai là phải xa lìa chấp trụ trước ba cõi.

Mười ba là phải xa lìa chấp tất cả pháp.

Mười bốn là phải xa lìa chấp như lý và chẳng như lý của tất cả pháp.

Mười lăm là phải xa lìa kiến chấp nương vào Phật.

Mười sáu là phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp.

Mười bảy là phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng.

Mười tám là phải xa lìa kiến chấp nương vào giới.

Mười chín là phải xa lìa sự sợ hãi pháp không.

Hai mươi là phải xa lìa sự trái chống tánh không.

Lại phải viên mãn hai mươi pháp.

Những gì là hai mươi?

Một là phải viên mãn sự thông đạt cái không.

Hai là phải chứng đắc sự viên mãn vô tướng.

Ba là phải viên mãn sự hiểu biết vô nguyện.

Bốn là phải viên mãn ba luân thanh tịnh.

Năm là phải viên mãn tâm bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp trước.

Sáu là phải viên mãn cái thấy bình đẳng về tất cả các pháp và ở trong đó không có sự chấp trước.

Bảy là phải viên mãn cái thấy bình đẳng về tất cả hữu tình và ở trong đó không có sự chấp trước.

Tám là phải viên mãn sự thông đạt lý thú chơn thật và ở trong đó không có sự chấp trước.

Chín là phải viên mãn cái trí vô sanh nhẫn.

Mười là phải viên mãn cái thuyết tất cả pháp đều qui lý nhất tướng.

Mười một là phải viên mãn sự diệt trừ phân biệt.

Mười hai là phải viên mãn sự xa lìa các tưởng.

Mười ba là phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp.

Mười bốn là phải viên mãn sự xa lìa phiền não.

Mười lăm là phải viên mãn sự Sa Ma Tha, Tỳ Bát Xá Na chỉ quán.

Mười sáu là phải viên mãn sự điều phục tâm tánh.

Mười bảy là phải viên mãn sự tịch tịnh tâm tánh.

Mười tám là phải viên mãn tánh vô ngại trí.

Mười chín là phải viên mãn sự không ái nhiễm.

Hai mươi là phải viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các Cõi Phật, tự hiện thân trong chúng hội của Phật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ Bậc thứ bảy là Viễn Hành, phải xa lìa hai mươi pháp như vậy và phải viên mãn hai mươi pháp như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở Bậc thứ tám là Bất Động, phải viên mãn bốn pháp.

Những gì là bốn?

Một là phải viên mãn sự ngộ nhập tâm hạnh của tất cả hữu tình, hai là phải viên mãn các thần thông du hý, ba là phải viên mãn cái thấy các Cõi Phật, và như cái thấy ấy mà tự trang nghiêm các Cõi Phật, bốn là phải viên mãn sự cúng dường, thừa sự Chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai, quán sát như thật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở Bậc thứ tám là Bất Động, phải viên mãn bốn pháp như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở Bậc thứ chín là Thiện Tuệ, phải viên mãn bốn pháp.

Những gì là bốn?

Một là phải viên mãn vế cái trí căn cơ thắng, liệt của các hữu tình, hai là phải viên mãn sự nghiêm tịnh Cõi Phật, ba là phải viên mãn đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định, bốn là phải viên mãn sự tùy theo thiện căn thuần thục của các hữu tình mà nhập vào các cõi, tự hiện hóa sanh.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở Bậc thứ chín là Thiện Tuệ, phải viên mãn bốn pháp như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở Bậc thứ mười là Pháp Vân, phải viên mãn mười hai pháp.

Những gì là mười hai?

Một là phải viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều được viên mãn, hai là phải viên mãn cái trí biết âm thanh của các loài khác nhau như là Chư Thiên, Long, Dược Xoa, Kiền Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Trà, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân, phi nhân v.v…

Ba là phải viên mãn trí biện thuyết vô ngại.

Bốn là phải viên mãn sự nhập thai hoàn hảo.

Năm là phải viên mãn sự đản sanh hoàn hảo.

Sáu là phải viên mãn gia tộc hoàn hảo.

Bảy là phải viên mãn chủng tánh hoàn hảo.

Tám là phải viên mãn quyến thuộc hoàn hảo.

Chín là phải viên mãn sanh thân hoàn hảo.

Mười là phải viên mãn xuất gia hoàn hảo.

Mười một là là phải viên mãn trang nghiêm cây Bồ Đề hoàn hảo.

Mười hai là là phải viên mãn sự hoàn thành tất cả công đức hoàn hảo.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi trụ ở Bậc thứ mười là Pháp Vân, phải viên mãn mười hai pháp như vậy.

Thiện Hiện! Nên biết đã viên mãn Bậc thứ mười là Pháp Vân, Đại Bồ Tát cùng các Như Lai phát ra lời nói không khác.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ý lạc thù thắng thạnh tịnh?

Phật dạy: Thiện Hiện: Nếu Đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, tu tập tất cả thiện căn, thì đó là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ý lạc thanh tịnh thù thắng.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp của tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí dẫn phát bốn thứ vô lượng: Từ, bi, hỷ, xả, thì đó là của Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp bố thí?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát đối với tất cả hữu tình không có phân biệt mà hành bố thí, thì đó là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp bố thí.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp thân cận thiện hữu?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát thấy các thiện hữu khuyến hóa hữu tình, khiến họ tu tập trí nhất thiết trí, liền thân cận cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thăm hỏi, thọ lãnh chánh pháp, ngày đêm vâng lời, phụng sự, tâm không lười mỏi, thì đó là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp thân cận thiện hữu.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp cầu pháp?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, cần cầu chánh pháp vô thượng của Như Lai, chẳng rơi vào các Bậc Thanh Văn, Độc Giác, thì đó là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp cầu pháp.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp thường ưa xuất gia?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát tất, ở tất cả nơi chốn sanh ra, thường chán sự tạp nhạp ồn ào của lao ngục gia cư, thường ưa vui với Phật Pháp, thanh tịnh xuất gia, không gì có thể ngăn trở, thì đó là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp thường ưa xuất gia.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ưa mến thân Phật?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát chỉ thoáng thấy hình tượng Phật rồi cho đến khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, hoàn toàn chẳng xả tác ý nghĩ nhớ đến Phật, thì đó là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ưa mến thân Phật.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp triển khai giáo pháp?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi Phật còn tại thế và sau khi nhập Niết Bàn, vì các hữu tình truyền khai giáo pháp, lúc đầu khoảng giữa và sau đều thiện, văn nghĩa xảo diệu, thuần nhất viên mãn, phạm hạnh trong sạch, đó là khế Kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, duyên khởi, thí dụ, bổn sự, bổn sanh, phương quảng, hy pháp, luận nghĩa, thì đó là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp triển khai giáo pháp.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp phá bỏ kiêu mạn?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát thường giữ sự khiêm tốn, cung kính điều phục tâm kiêu mạn, do đó chẳng sanh vào giòng họ hạ tiện, thì đó là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp phá bỏ kiêu mạn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật thường hằng?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát nói ra tương xứng với sự hiểu biết, lời nói và việc làm hợp nhau, thì đó là Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật thường hằng.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát giữ cấm giới thanh tịnh?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát chẳng khởi tác ý Thanh Văn, Độc Giác và các việc khác về phá giới, chướng ngại, giác ngộ, thì đó là Đại Bồ Tát giữ cấm giới thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tri ân báo ân?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát, khi tu hành Bồ Tát hạnh, đối với việc được một ơn nhỏ còn chẳng quên báo đáp, huống là đối với ân huệ lớn mà chẳng báo đền, thì đó là Đại Bồ Tát tri ân báo ân.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát trụ sức an nhẫn?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát dù có các hữu tình đến xúc phạm, hủy nhục, nhưng đối với họ không có tâm tức giận, làm hại, thì đó là Đại Bồ Tát trụ sức an nhẫn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát thọ hoan hỷ thù thắng?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát việc giáo hóa hữu tình đã được thành thục, thân tâm vui vẻ, hưởng niềm hoan hỷ thù thắng, thì đó là Đại Bồ Tát thọ hoan hỷ thù thắng.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát chẳng bỏ hữu tình?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát cứu độ hữu tình, tâm hằng chẳng bỏ, thì đó là Đại Bồ Tát chẳng bỏ hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát hằng khởi đại bi?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát, khi tu hành Bồ Tát hạnh, khởi lên ý nghĩ thế này: Ta vì nhiêu ích tất cả hữu tình, giả sử trải qua vô lượng vô số trăm ngàn kiếp, ở trong đại địa ngục chịu các khổ kịch liệt, hoặc thiêu hoặc nấu, hoặc chém hoặc chặt, hoặc đâm hoặc treo, hoặc xay hoặc giã, chịu vô lượng sự khổ như vậy.

Cho đến vì muốn khiến họ nương nơi Phật thừa mà nhập Niết Bàn, Thế Giới của tất cả hữu tình như vậy mà hết, nhưng tâm đại bi chưa từng mệt mỏi chán nản, thì đó là Đại Bồ Tát hằng khởi đại bi.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát đối với các Sư trưởng đem tâm kính tín, thăm hỏi, phụng sự, cúng dường tưởng như phụng sự Phật?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát vì cầu quả vị giác ngộ cao tột, cung thuận Sư trưởng, không để tâm đến điều gì khác, thì đó là Đại Bồ Tát đối với các Bậc Sư trưởng lấy tâm kính tín, thăm hỏi phụng sự, cúng dường tưởng như phụng sự Phật.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát cần cầu tu tập Ba la mật đa?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát đối với các Ba la mật đa chuyên tâm cầu học, xa lìa các việc khác, thì đó là Đại Bồ Tát cần cầu tu tập Ba la mật đa.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát cần cầu đa văn, thường không chán nản, không cho là đủ, đối pháp được nghe chẳng đắm vào văn tự?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát phát khởi sự siêng năng tinh tấn, nghĩ rằng: Đối với chánh pháp của Phật ở cõi này hoặc Chư Phật Thế Tôn ở mười phương Thế Giới đã nói, ta đều nghe, tu tập đọc tụng, thọ trì, nhưng đối với những giáo pháp ấy, chẳng đắm trước văn tự, thì đó là Đại Bồ Tát cần cầu đa văn, thường không chán nản, không cho là đủ, đối với pháp đã nghe, chẳng đắm trước văn tự.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát lấy tâm vô nhiễm thường hành pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa nhưng chẳng tự cao?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát vì các hữu tình tuyên thuyết chánh pháp còn chẳng tự duy trì thiện căn này hồi hướng quả giác ngộ, huống là cầu việc khác, tuy hóa đạo nhiều mà chẳng tự thị, thì đó là Đại Bồ Tát lấy tâm vô nhiễm thường hành pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa nhưng chẳng tự cao.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát vì nghiêm tịnh cõi nước, trồng các căn lành, tuy để hồi hướng nhưng chẳng tự đề cao?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát dõng mãnh tinh tấn tu các căn lành, vì muốn trang nghiêm các Cõi Phật thanh tịnh và làm thanh tịnh tâm của mình và người, tuy làm việc như vậy mà chẳng tự cao, thì đó là Đại Bồ Tát vì nghiêm tịnh cõi nước, trồng các căn lành, tuy là để hồi hướng mà chẳng tự đề cao.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát vì giáo hóa hữu tình, tuy chẳng chán nản mệt mỏi với sanh tử vô biên, nhưng chẳng tự cao?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát vì muốn thành thục tất cả hữu tình, trồng các căn lành, nghiêm tịnh Cõi Phật, cho đến khi chưa được viên mãn trí nhất thiết trí, tuy chịu sự cần khổ của vô biên sanh tử, nhưng không chán nản mỏi mệt, cũng chẳng tự cao, thì đó là Đại Bồ Tát vì giáo hóa hữu tình, tuy chẳng mệt mỏi chán nản với vô biên sanh tử, nhưng chẳng tự cao.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tuy trụ tàm quí nhưng không đắm trước?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát chuyên cầu quả vị giác ngộ cao tột, đối với ý nghĩ Thanh Văn, Độc Giác đầy đủ tàm quí, hoàn toàn chẳng móng khởi, nhưng ở trong đó, cũng không đắm trước, thì đó là Đại Bồ Tát, tuy trụ tàm quí nhưng không đắm trước.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát trụ nơi thanh vắng thường chẳng rời bỏ?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát vì cầu quả vị giác ngộ cao tột, vượt lên các Bậc Thanh Văn, Độc Giác v.v… thường chẳng rời bỏ nơi thanh vắng, thì đó là Đại Bồ Tát trụ nơi thanh vắng thường chẳng rời bỏ.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát thiểu dục?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát đối với quả vị giác ngộ còn chẳng tự mong cầu, huống là muốn tiếng khen lợi dưỡng v.v… của thế gian, thì đó là Đại Bồ Tát thiểu dục.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát hỷ túc?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát chỉ vì chứng đắc trí nhất thiết trí, nên đối với các việc khác không đắm trước, thì đó là Đại Bồ Tát hỷ túc.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát thường chẳng rời bỏ công đức đầu đà?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát thường đối với pháp thâm diệu, khởi lên sự kiên nhẫn, quán sát kỹ lưỡng, thì đó là Đại Bồ Tát, thường chẳng rời bỏ công đức đầu đà.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát đối với các học xứ chưa từng xả bỏ?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát đối với giới đã học, giữ vững chẳng sai lệch, nhưng ở trong đó, thường chẳng chấp tướng, thì đó là Đại Bồ Tát đối với các học xứ chưa từng xả bỏ.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát đối với các dục lạc sanh nhàm chán sâu sắc, xa lìa?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát đối với dục lạc ngọt ngào hấp dẫn, chẳng khởi dục tâm, thì đó là Đại Bồ Tát, đối với các dục lạc sanh nhàm chán sâu sắc, xa lìa.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát thường hay phát khởi tâm tịch diệt vốn có?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát đạt được tất cả pháp nhưng không hề khởi tác, thì đó là Đại Bồ Tát thường hay phát khởi tâm tịch diệt vốn có.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát bỏ các sở hữu?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát đối với pháp nội ngoại, không hề chấp thủ, thì đó là Đại Bồ Tát bỏ các sở hữu.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tâm chẳng ngưng trệ chìm đắm?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát đối với các thức đã trụ chưa từng khởi tâm, thì đó là Đại Bồ Tát tâm chẳng ngưng trệ chìm đắm.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát, đối với các vật sở hữu, không tham luyến đoái hoài?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát đối với tất cả vật, không có sự tư duy, thì đó là Đại Bồ Tát đối với các sở hữu không có sự tham luyến đoái hoài.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Đại Bồ Tát xa lìa nhà ở?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát ý chí muốn đi đến các Cõi Phật, tùy theo nơi sanh ra, thường ưa xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thọ trì bình bát, khoác ba pháp y, hiện làm Sa Môn, thì đó là lý do Đại Bồ Tát phải xa lìa nhà ở.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Đại Bồ Tát phải xa lìa Bí Sô Ni?

Thiện Hiện! Nếu là Đại Bồ Tát, thường phải xa lìa Bí Sô Ni, chẳng cùng ở chung dù trong khoảnh khắc, đối với họ cũng lại chẳng khởi dị tâm, thì đó là lý do của Đại Bồ Tát phải xa lìa Bí Sô Ni.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Đại Bồ Tát phải xa lìa nhà keo kiệt?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ: Ta nên ở trong đêm dài tăm tối, làm việc lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, khiến các hữu tình này do phước lực của họ mà cảm được nhà thí chủ tốt đẹp, cho nên ta ở trong đó, chẳng nên tham lam, tật đố, thì đó là lý do Đại Bồ Tát phải xa lìa nhà keo kiệt.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Đại Bồ Tát phải xa lìa chúng hội tranh chấp giận dữ?

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ thế này: Nếu ở trong chúng hội, mà trong chúng đó, hoặc có Thanh Văn, Độc Giác, nói thừa ấy là tương ưng với pháp yếu, khiến ta thối thất tâm đại bồ đề, vì thế nhất định phải xa lìa chúng hội.

Lại khởi lên ý nghĩ thế này: Các kẻ tranh chấp giận dữ có thể khiến hữu tình phát khởi sân hại, tạo tác đủ các loại nghiệp ác bất thiện, việc ấy còn trái với đường thiện, huống là đại bồ đề, vì thế nhất định phải xa lìa sự tranh chấp giận dữ, thì đó là lý do Đại Bồ Tát phải xa lìa chúng hội tranh chấp.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần