Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Hai - Phẩm Ba - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
PHẨM BA
CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG NIMI
TIỀN THÂN NIMI
PHẦN MỘT
Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra. Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong khi trú tại vườn xoài của Vua Makhàdeva gần thành Mithilà, về một nụ cười.
Một buổi chiều nọ, bậc Đạo Sư cùng hội chúng đông đảo Tỳ Kheo đang dạo chơi trong vườn xoài, Ngài chợt thấy một nơi hợp ý Ngài. Vì muốn kể lại hành nghiệp của Ngài ở thời quá khứ, Ngài liền để lộ một nụ cười trên khuôn mặt cho hội chúng chiêm ngưỡng.
Khi Tôn Giả Ànanda hỏi tại sao Ngài mỉm cười, Ngài đáp: Này Ànanda, ở chỗ kia, ngày xưa ta đã nhập Thiền Định vào thời Vua Makhàdeva. Rồi theo lời thỉnh cầu của Tôn Giả, Đức Thế Tôn ngồi xuống nơi Tôn Giả mời Ngài, và kể câu chuyện quá khứ.
Thuở xưa, ở Quốc Độ Videha, trong kinh thành Mithilà có một vị Vua tên là Makhàdeva. Khi còn thanh xuân, Vua hưởng dục lạc trong khoảng tám mươi bốn ngàn năm, kế đó Ngài làm Thái Tử trong tám mươi bốn ngàn năm rồi Ngài lên làm Vua trong tám mươi bốn ngàn năm nữa.
Lúc bấy giờ Ngài bảo người thợ hớt tóc phải báo cho Ngài biết ngay khi gã thấy sợi tóc bạc đầu tiên trên đầu Ngài. Thời gian qua, khi người ấy thấy sợi tóc bạc liền tâu với Vua, Vua bảo gã lấy nhíp nhổ ra để lên tay Ngài, Ngài thấy như thể Thần chết đang bám vào trán Ngài vậy.
Ngài nghĩ thầm: Bây giờ đã đến lúc ta phải rời thế tục. Vì thế Ngài cho phép người hớt tóc lựa chọn một làng theo ý gã, còn Ngài cho triệu Thái Tử đến giao việc triều chính cho Thái Tử, vì là Ngài sẽ xuất gia.
Tâu phụ Vương, tại sao vậy?
Thái Tử hỏi.
Ngài đáp:
Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra,
Cướp dần đời sống tháng năm qua,
Chúng là Thiên sứ nhắc ta nhớ,
Nay đến thời ta phải xuất gia.
Cùng với những lời này, Ngài phong Vương cho con theo nghi lễ quán đảnh rảy nước Thánh trên đầu, huấn dạy tân Vương phép trị nước, rồi Ngài rời kinh thành, sống theo đời của một Sa Môn.
Suốt tám mươi bốn ngàn năm Ngài tu tập Tứ Vô Lượng Tâm bốn phạm trú: Từ, bi, hỷ, xả, rồi Ngài được sinh lên Phạm Thiên Giới. Con của Ngài cũng theo gương cha, xuất thế và được sinh lên Phạm Thiên Giới. Các Hoàng Tử về sau cũng vậy, cứ lần lượt xuất gia bốn mươi tám ngàn vị thiếu hai.
Khi thấy sợi tóc bạc đầu tiên xuất hiện, vị ấy liền ẩn cư trong vườn xoài, hành trì Tứ Vô Lượng Tâm và được sinh lên Phạm Thiên Giới.
Là vị Vua đầu tiên trong hoàng tộc được sinh cõi này, Vua Makhàdeva đứng trên Phạm Thiên Giới nhìn xuống số phận của hoàng tộc, Ngài rất hoan hỷ khi thấy gần tám mươi bốn Hoàng Tử đã xuất gia.
Ngài suy nghĩ: Sẽ có Niết Bàn bây giờ hay không?
Ngài thấy là không thể có được, nên Ngài quyết định chính Ngài chứ không ai khác nữa phải kế tục sự nghiệp hoàng gia. Vì thế Ngài từ Thiên Giới xuống nhập mẫu thai Hoàng Hậu của vị Vua thành Mithilà.
Vào ngày đặt tên, các nhà Tiên tri nhìn các tướng mạo của hài nhi, đồng tâu: Tâu Đại Vương, Vương Tử này ra đời để kế tục sự nghiệp hoàng gia. Sẽ không có vị nào trong hoàng tộc làm Ẩn Sĩ nữa.
Nghe vậy, Vua bảo: Hài nhi này ra đời để nối nghiệp hoàng gia như thể chiếc vành bánh xe vậy. Vì thế Ngài đặt tên con là: Nimi kumàra hay Vương tử A Luân.
Từ thuở ấu thơ, Vương Tử này đã chuyên tâm bố thí, làm công đức, giữ giới luật Bồ Tát. Khi Vua cha theo lệ thường, trông thấy sợi tóc bạc đầu tiên, liền ban một ngôi làng cho người hớt tóc, phong Vương cho con rồi trở thành Ẩn Sĩ trong vườn xoài và được sinh lên Phạm Thiên Giới.
Còn Vua Nimi chuyên tâm bố thí, nên đã lập năm bố thí đường tại bốn cổng thành và ngay chính giữa thành để thực hành đại bố thí. Trong mỗi bố thí đường, Ngài ban phát một trăm ngàn đồng tiền, thế là Ngài phát ra năm trăm ngàn đồng tiền mỗi ngày.
Ngài thường xuyên giữ Ngũ Giới, vào các ngày rằm Ngài giữ giới hạnh Bồ Tát. Ngài khuyến khích dân chúng bố thí và làm công đức, Ngài chỉ dạy cho họ con đường đi lên Thiên Giới, khiến họ thấy kinh sợ Thần chết. Rồi Ngài Thuyết Pháp cho họ nghe.
Dân chúng tin theo lời thuyết giảng của Ngài, bố thí, làm lành, nên khi từ trần đều lần lượt được sinh lên Thiên Giới, vì thế Thiên Giới trở nên đông đảo, còn địa ngục như thể trống vắng.
Lúc ấy ở Cõi Trời Ba Mươi Ba, Chư Thiên đang tụ họp tại thiện pháp đường Sudhammà đồng thanh hô to: Hoan nghênh bậc Sư Trưởng của chúng ta, Đại Vương Nimi vạn tuế!
Chính nhờ Ngài hành thiện nghiệp, nhờ tri kiến Phật của Ngài mà chúng ta đã đạt được an lạc vô biên ở Thiên Giới này. Như thế họ tán thán công đức của bậc Đại Sĩ. Ngay trong cõi nhân gian tiếng tán thán cũng lan tràn khắp nơi như dầu loang trên mặt biển cả.
Bậc Đạo Sư giải thích việc này cho hội chúng Tỳ Kheo qua các vần kệ sau:
Quả thật diệu kỳ ở thế gian,
Các Hiền Nhân đã được vinh thăng,
Vào thời minh chúa Nimi ấy,
Thánh Giả, Hiền Nhân đã ngập tràn.
Vi Đề Ha, Đại Đế ngày xưa,
Bậc chiến thắng bao kẻ địch thù,
Trong lúc Ngài thi hành bố thí,
Vẫn thường sinh khởi mối suy tư:
Điều gì đem lại nhiều thành quả,
Bố thí? Tu hành? Ai bảo cho?
Lúc ấy cung của Sakka Thiên Chủ Đế Thích bỗng nóng rực lên.
Thiên Chủ tìm hiểu lý do, thấy Vua đang suy nghĩ như vậy, Ngài nói: Ta sẽ giải quyết vấn đề này.
Rồi Ngài ra đi, bỗng chốc đã biến Hoàng Cung thành một vùng sáng lòa, Ngài bước vào điện sừng sững tỏa hào quang rực rỡ và theo lời thỉnh cầu của Vua, Ngài làm sáng tỏ mọi sự.
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:
Đại Đế Chư Thiên, đấng vạn năng,
Là Ngài ngàn mắt tỏa hào quang,
Nhận ra tư tưởng trong Vua ấy,
Trước ánh sáng Ngài, bóng tối tan.
Sahassakkka: Sakka có ngàn mắt.
Đại Đế Nimi tâu Thiên Chủ Vàsava tức Sakka, trong lúc toàn thân rợn thịt da:
Ngài là ai, có phải Thiên Thần,
Hay chính Sak ka Thiên Chủ chăng?
Vì trẫm chưa từng nghe hoặc thấy,
Hào quang như vậy ở trên trần.
Sau đó Thiên Chủ Vàsava nói với Vua Nimi, vì biết Vua đang rợn cả thịt da:
Ta chính Sakka Thiên Chủ đây,
Đến thăm Ngài chính ở nơi này,
Hỏi điều Ngài muốn, kìa Hoàng Thượng,
Chớ rợn thịt da sợ hãi vậy!
Rồi Vua Nimi hỏi Thiên Chủ Vàsava, khi nghe lời mời này:
Sakka Thiên Chủ đấng toàn năng,
Giải quyết cho ta nỗi khó khăn:
Bố thí hay tu hành Thánh Hạnh,
Việc gì đem kết quả nhiều hơn?
Rồi Và Sa lại bảo Ni Mi
Giải quyết cho Vua chính vấn đề,
Nói quả tu hành đời Thánh Hạnh,
Với Nhà Vua ấy vẫn vô tri:
Người sinh làm một Khat Ti Ya,
Kẻ sống đời thanh tịnh bậc ba,
Một vị Thiên Thần vào bậc giữa,
Thánh Hiền bậc nhất đạt tinh hoa.
Nhờ bố thí thôi khó đạt thành,
Như vậy những quả vị an lành,
Những gì bậc Thánh Nhân xuất thế
Chứng đắc nhờ tu tập khổ hành.
Qua các vần kệ này, Ngài làm sáng tỏ thành quả vĩ đại của đời tu hành, rồi Ngài đọc các bài kệ khác, nêu tên các vị Vua trong quá khứ đã không thể vượt qua Dục Giới nhờ thực hành đại bố thí, đó là các vị Vua:
Du dì pa, Sà ga ra, Se la,
Mu ca lin da, Bhagì ra sa,
U sì na ra và At tha ka,
As sa ka và Pu thuj ja na.
Các Vua, Giáo Sĩ, Khat ti ya,
Và biết bao nhiêu kẻ đã qua,
Vì chỉ chuyên thi hành tế lễ,
Không ai vượt khỏi cảnh Pe ta.
Sau khi giải thích thành quả của đời sống tu hành cao hơn hẳn thành quả của bố thí.
Như vậy Ngài nêu rõ những vị Ẩn Sĩ nhờ sống đời Thánh hạnh đã vượt qua Thế Giới Peta ma quỷ và được sinh lên Phạm Thiên Giới, rồi Ngài nói:
Và đây bảy Ẩn Sĩ Hiền Nhân,
Những vị đã siêu thoát cõi trần:
Yà ma ha nu, So ma yà ga,
Ma no ja va, Sa mud da,
Mà gha, Bha ra ta, Kà li ka ra.
Còn có bốn Hiền Nhân khác nữa:
Kas sa pa, An gì ra sa,
A kit ti, Ki sa vac cha,
Thảy đều lên cõi Phạm Thiên Thần.
Từ trước đến giờ Ngài theo truyền thuyết mô tả thành quả vĩ đại của đời Thánh hạnh, bây giờ Ngài tiếp tục tuyên bố những gì chính Ngài đã thấy:
Sì dà phương Bắc, một trường giang,
Sâu thẳm, thuyền bè khó vượt ngang,
Quanh nó, giống như rừng lửa sậy,
Sáng ngời các dốc núi màu vàng.
Cát đằng bao phủ ở quanh vùng,
Thơm ngát cây trên núi dưới sông,
Ở đó mười ngàn nhà Ẩn Sĩ.
Một thời đã trú ngụ tu thân.
Ta giữ lời nguyền của Thánh nhân,
Chuyên tâm tiết dục, tự điều thân,
Thực hành bố thí, đời đơn độc,
Chăm sóc tâm từng bước vững vàng.
Bất cứ ở trong đẳng cấp nào,
Phải tìm bậc Thánh để theo hầu,
Vì con người thảy đều ràng buộc,
Do chính mọi hành nghiệp bấy lâu.
Xa Chánh đạo, tất phải đọa thân,
Vào miền địa ngục mọi giai tầng,
Mọi giai tầng trở thành thanh tịnh,
Nếu tạo thiện hành, sống chánh chân.
Sau đó Ngài bảo: Tuy nhiên, này Đại Vương, mặc dù đời tu hành đạt kết quả cao hơn bố thí nhiều, các bậc Đại Nhân đều phải lưu tâm đến cả hai việc này:
Bố thí và giữ giới hạnh. Với lời nhủ này, Thiên Chủ trở về cảnh giới của Ngài.
Lúc ấy hội chúng Chư Thiên Giới liền hỏi Ngài: Tâu Thiên Chủ, lâu nay chúng con không được yết kiến Thiên Chủ, chẳng hay Ngài ở đâu vậy?
Này các Hiền Giả, Vua Nimi ở thành Mithilà đang có mối hoài nghi trong lòng nên ta phải đi giải quyết vấn đề để Vua khỏi nghi ngờ nữa.
Rồi Ngài tả sự việc qua các vần kệ:
Này Chư Thiên hãy lắng nghe ta,
Tất cả đây tề tựu nảy giờ:
Các bậc chánh nhân đều khác hẳn,
Cả về đẳng cấp lẫn tài hoa.
Ni mi chúa tể ở phàm trần,
Là bậc trí hiền đức, chánh chân,
Vua nước Vi Đề, chuyên bố thí,
Là người chiến thắng các cừu nhân.
Trong lúc Ngài ban phát rộng tay,
Khởi sinh trong trí mối nghi này:
Điều gì kết quả nhiều hơn hẳn,
Bố thí? Tu hành? Ai có hay?
Sau đó Ngài kể các đức tính của Vua, không sót điều gì khiến Chư Thiên mong ước được gặp Vua, liền nói: Tâu Thiên Chủ, Vua Nimi là bậc Sư Trưởng của chúng con, nhờ lời dạy bảo của Ngài, cùng các phương tiện của Ngài, chúng con đã đạt được niềm an lạc trên Thiên Giới. Chúng con ao ướcđược gặp Ngài. Vậy xin Thiên Chủ hãy cho mời Ngài đến để chúng con được bái yết Ngài.
Thiên Chủ Sakka chấp thuận, truyền gọi Thần Màtali đến: Này hiền hữu, hãy buộc ngựa vào xa giá của ta, rồi xuống Kinh Thành Mithilà, rước Vua Nimi lên Thiên xa và đem Ngài về đây. Thần Màtali vâng lệnh ra đi. Trong khi Thiên Chủ Sakka đàm đạo với Chư Thiên và ra lệnh cho Màtali đem xe xuống trần, tính ra đã một tháng trôi qua hạ giới.
Lúc đó đúng ngày Trai giới trăng tròn, Vua Nimi mở cửa sổ hướng đông ra, ngồi trên lầu, các triều thần vây quanh, suy ngẫm đến công hạnh của mình. Vừa lúc trăng lên ở hướng đông thì Thiên xa xuất hiện.
Dân chúng đã ăn cơm tối xong, đang cùng nhau trò chuyện thong dong trước cửa: Ô kìa! Sao hôm nay, lại có đến hai vầng trăng thế?
Họ kêu lên.
Trong lúc họ đang bàn tán thì chiếc xe lộ rõ dần: Ồ không phải vầng trăng, mà là chiếc xe ngựa.
Lúc đó đoàn tuấn mã cả ngàn con của Thần Màtali cùng xe của Thiên Chủ Sakka xuất hiện, dân chúng tự hỏi: Xe này dành cho ai đây?
Phải rồi, vị Vua của họ thật anh minh, chắc Thiên Chủ Sakka dành xe này cho vị Vua của họ rồi, chắc Thiên Chủ muốn gặp Vua.
Vì thế họ hoan hỷ reo hò:
Một việc diệu kỳ ở thế gian,
Làm ta rợn gáy bởi hân hoan:
Vì Vi đề Đại Vương vinh hiển,
Nên chiếc thiên xa xuống cõi phàm.
Trong lúc dân chúng đang bàn tán mải mê như vậy thì nhanh như gió, Màtali quay xe lại, dừng xe bên song cửa Hoàng Cung, mời Vua lên xe.
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:
Mà Ta Li, đại lực Thiên Thần,
Điều ngự thiên xa của Ngọc Hoàng,
Đến thỉnh Vi Đề Ha Chúa tể,
Ở Mithi điện: Tấu minh quân,
Chúa công dưới thế, lên xa giá,
Thiên Chủ Indra với các Thần,
Ở Cõi Băm ba, cung thiện pháp,
Đang chờ để yết kiến tôn nhan.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Sakuludayi - Phần Mười Chín - Thần Túc Thông
Phật Thuyết Kinh Lục độ Tập - Chương Một - Bố Thí độ Vô Cực - Kinh Số bốn
Phật Thuyết Kinh Cự Lực Trưởng Giả Sở Vấn đại Thừa - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Sanh Con