Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Hai - Phẩm Chín - Chuyện ðại Vương Vessantara Tiền Thân Vessantara - Phần Bảy - Jùjaka Lên Núi Vamka
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
PHẨM CHÍN
CHUYỆN ÐẠI VƯƠNG VESSANTARA
TIỀN THÂN VESSANTARA
PHẦN BẢY
JÙJAKA LÊN NÚI VAMKA
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:
Lão đi đến tận nơi xa,
Hỏi thăm dân chúng vào ra quây quần:
Xin cho tôi biết Ðại Vương
Ves san ta ấy tìm phương hướng nào?
Ðáp ngay cho lão đôi câu,
Ðám đông tụ họp cùng nhau trả lời:
Ngài đành phải chịu tàn đời
Chỉ vì bố thí lũ tồi như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi
Ra ngoài xứ sở, đến đồi Vam ka.
Ngài đành phải chịu tiêu ma
Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ðem con vợ đến ở đồi Vam ka.
Thế là các ngươi đã hủy hoại Ðại Vương của ta, nay còn vác mặt đến đây nữa ư?
Ngươi hãy đứng yên đấy!
Rồi lấy gậy gộc, sỏi đá, họ đánh đuổi lão ra.
Nhưng lão được các vị Thần dẫn vào đúng con đường đi đến đồi Vamka
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:
Lão kia bị vợ rầy la
Do niềm tham dục bùng ra hoành hành,
Chuộc sai lầm ở rừng xanh
Nơi loài hổ báo thường rình mồi săn.
Tay cầm gậy, bát xin ăn,
Muỗng làm tế lễ, vào rừng hoang sơ,
Nơi đây là chốn ẩn cư
Của người bố thí đúng như ý mình.
Một khi vào tận rừng xanh
Từng bầy chó sói vây quanh con đường,
Nhảy quàng xiêng lão La Môn,
Rồi đi hốt hoảng lạc đường nào hay.
La Môn lắm dục vọng này,
Lòng tham buông thả, thấy ngay lạc loài
Ðường lên vạn cổ mất rồi,
Bắt đầu thăm hỏi những lời dò la:
Ai cho biết Vessanta,
Ông hoàng chiến thắng mọi Vua trên đời,
Người ban an lạc đúng thời,
Vị Vua vĩ đại, hùng oai trên trần?
Nơi an trú kẻ cầu ân,
Như đất lành với muôn dân sinh thành?
Nào ai sẽ nói cho mình
Vessanta chúa quang vinh, hùng cường?
Mọi người mong muốn cầu ân
Tìm Ngài như biển mọi sông đổ vào,
Nào ai nói với ta mau
Ves san ta chúa tối cao hùng cường?
Như hồ lạc thú an toàn,
Nước trong mát lạnh ngập tràn nhấp nhô,
Súng sen giăng trải lô xô,
Ngó tơ bao phủ mặt hồ lặng thinh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves san ta chúa quang vinh hùng cường?
Như cây sung lớn bên đường,
Mọc lên làm chốn nghỉ chân an toàn
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves san ta chúa quang vinh hùng cường?
Như xoài, hoặc cây bàng
Mọc làm thành chốn bên đường nghỉ chân
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ báo cho mình
Ves san ta chúa quang vinh hùng cường?
Nào ai nghe tiếng ta than
Chung quanh toàn cả rừng hoang hãi hùng?
Lòng ta xiết đỗi vui mừng
Nếu ai cho biết Vương quân nơi nào.
Chung quanh toàn cả rừng sâu,
Ai nghe ta thở than nào có hay?
Hân hoan hạnh phúc lắm thay
Nếu ai cho biết Ngài rày nơi nao?
Bấy giờ người kiểm lâm đã được chia phiên canh giữ rừng, nghe lời than vãn này liền suy nghĩ: Ðây là lão Bà La Môn đang kêu ca tìm nơi trú ẩn của Vua Vessantara, lão đến đây không có mục đích gì tốt đâu. Lão muốn xin Ngài cho Maddì hoặc hai trẻ kia, chắc chắn thế. Ðược rồi, ta sẽ giết lão.
Thế là y liền đến gần lão và rút cây cung ra hăm dọa lão:
Này lão Bà La Môn, ta sẽ không tha mạng lão đâu!
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:
Thợ săn ngang dọc rừng hoang,
Lắng nghe lời lão thở than, nói rằng:
Ngài đành phải chịu tiêu vong
Chỉ vì bố thí những phường như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ra ngoài xứ sở đến đồi Vam ka!
Ngài đành phải chịu tiêu ma
Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ðem vợ con đến ở đồi Vam ka.
Ðồ ngu vô dụng quả là,
Nếu ngươi mong muốn bỏ nhà ra đây,
Ðể tìm Vương Tử rừng này
Như con hạc kiếm cá bầy giữa sông.
Thế thì đây, hỡi tôn ông,
Mạng kia của lão, ta không tha vậy,
Tên ta sẽ hút máu đầy
Khi ta bắn nó từ cây cung dài.
Rồi ta sẽ chẻ đầu ngươi,
Xé tim gan ấy tức thời tại đây,
Như chim cúng lễ Thần cây,
Ta làm thịt lão giờ đây tế Thần.
Rồi ta lấy thịt, mỡ, gân,
Lấy đầu, tim lão đủ phần thiếu chi,
Lão thành tế vật tức thì
Ngay khi lão mới ra đi lìa dời.
Lão là lễ vật đáng mời,
Lễ dâng đàn tế tuyệt vời ước mong,
Về sau lão chẳng còn hòng
Tìm đường hãm hại vợ con của Ngài.
Nghe những lời này, lão già sợ chết khiếp, liền tìm cách trả lời dối trá:
Sứ thần ai cũng kiêng oai,
Không ai được phép giết người sứ quân,
Ðây là qui luật ngàn năm,
Nếu ông muốn, hãy chú tâm nghe này:
Thần dân hối hận lắm thay,
Vua cha thương nhớ suốt ngày lo âu,
Mẹ Ngài mòn mỏi ưu sầu,
Mắt bà đang hóa ra mau mờ dần.
Ðến đây ta chính sứ Thần
Ðem về chúa tể Vessanta này,
Hãy nghe, cho lão biết vậy
Nơi đâu có thể tìm Ngài chúa công.
Lúc ấy, người kia hài lòng khi nghe lão đến để tìm Vua Vessantara về, nên y vội vàng buộc bầy chó lại, gọi lão Bà La Môn xuống và vừa mời lão ngồi trên một đống củi, y vừa ngâm vần kệ này:
Ta yêu Vương Tử, Sứ Thần,
Và đây ta có để phần tặng ông
Món quà thân thiện đón mừng:
Ðùi nai cùng hũ mật ong ngọt ngào.
Ân nhân tìm kiếm cách nào
Ta đây sẽ nói làm sao bây giờ.
Nói xong, y cho lão Bà La Môn thức ăn, cùng một bầu mật ong và một đùi nai nướng, rồi để lão lên đường, vừa đưa tay phải lên chỉ nơi bậc Ðại Sĩ đang ở, y vừa ngâm kệ:
Ðạo Sĩ ôi, núi đằng xa,
Gan dha mà ấy chính là Hương Sơn,
Nơi Vessanta Ðại Vương
Hiện đang sống với vợ con một đoàn.
Với y của bậc La Môn,
Bát, thìa, tóc bện, Đạo Nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Cây đằng xa đó, kìa trông,
Trĩu cành sai quả xanh um sườn đồi,
Trong khi đỉnh núi cao vời
Thẫm đen đến tận mây Trời ẩn thân.
Bụi sal, tai ngựa, cát đằng,
Cùng nhiều cây khác nhẹ nhàng chuyển rung
Khác nào một đám túy ông
Lắc lư trong gió, người trông thấy hoài.
Trên cao các dãy cây Trời
Bầy chim hòa nhạc đồng thời ca vang,
Najju, cu gáy từng đàn
Chuyền từ cây nọ nhẹ nhàng lướt nhanh.
Chen nhau giữa đám lá cành
Chim mời khách lạ, hoan nghênh đón mừng,
Làm vui lòng mọi thế nhân
Tìm nhà an trú giữa rừng hoang sơ,
Nơi kia cùng với con thơ,
Ves san ta chúa ẩn cư xuất trần.
Với y của bậc La Môn
Bát, thìa, tóc bện, Đạo Nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Người này lại nói thêm để ca tụng vùng thảo am ấy:
Hồng đào, xoài mít thơm nồng,
Mận mơ đủ loại lòng thòng, Sàla,
Tin dook vàng ánh, cây đa,
Cùng nhiều cây khác hiện ra cây bàng.
Lắm cây sung, vả trên ngàn
Toàn thân mọc thấp, chín thơm ngọt ngào,
Chà là, nho tuyệt diệu sao,
Tổ ong mật, hãy ăn vào thỏa thuê.
Vài cây xoài mới trổ hoa,
Vài cây có trái nhú ra đúng mùa,
Một vài trái đã chín vừa,
Trái xanh như ếch, trái chưa chín vàng.
Người nào đứng dưới cây rừng
Hái bao nhiêu quả cây dâng đón mời,
Sắc hương, mùi vị tuyệt vời,
Dù chưa chín, hoặc chín rồi đều phô.
Ôi! Làm ta phải la to
Khi nhìn cảnh tượng bao la, phi thường
Khác nào khung cảnh Thiên Đường,
Nơi Thần Tiên ở, khu vườn lạc hoan.
Cọ, dừa, thốt nốt tràn lan
Trên cao nguyên của núi ngàn hoang sơ,
Muôn hoa dăng chuỗi kết tua
Khác nào lễ hội ngọn cờ tung cao,
Hoa kia có đủ sắc màu
Giống như ngàn vạn vì sao điểm Trời.
Gụ, đàn hương mọc khắp nơi
Cùng nhiều cây khác không lời diễn ra,
Cây dâu, cây dẻ, phượng hoa
Mọc dày chi chít chen đua la đà.
Gần bên có một cái hồ,
Súng sen xanh trắng tràn bờ phủ lên,
Khác nào vườn các Thần Tiên
Chính tên là cảnh lạc viên trên Trời.
Sơn ca, cu gáy hót hoài
Làm cho khắp mọi sườn đồi âm vang,
Ðắm say vì các hoa ngàn
Nở ra theo đúng mùa màng quanh năm.
Hãy nhìn mật ngọt âm thầm
Rơi rơi từng giọt trên tàn sen thưa,
Và nghe ngọn gió đong đưa
Lướt đi nhè nhẹ từ bờ tây nam
Ðến khi tất cả phấn hương
Ðược mang theo gió tỏa lan ngát Trời.
Biết bao dâu, lúa chín muồi
Mọc quanh vùng ấy thường rơi xuống hồ,
Từng đàn cua, cá, trạnh, rùa
Phóng vào tìm kiếm say sưa miệt mài,
Mật rơi như thể sữa tươi,
Như bơ từ đám hoa cười mênh mang.
Từng làn gió nhẹ đưa ngang
Cỏ cây đủ loại mùi hương diệu huyền,
Hình như rừng rậm quanh miền
Ðắm say với đám hoa trên núi đồi.
Bầy ong bay lượn khắp nơi
Vo ve quanh quẩn theo mùi hoa thơm,
Bầy chim đủ sắc bay cùng
Líu lo, chiêm chiếp trong lòng hân hoan
Nhiều chim cùng bạn lượn vòng:
Chích chích, chép chép, vui mừng biết bao!
Chim kêu ríu rít lao xao:
Bạn yêu, bạn quý, bạn trao ân tình!
Muôn hoa dăng chuỗi viền quanh
Như khi cờ xí tung hoành lượn bay,
Hoa đầy màu sắc đẹp thay,
Hương thơm ngào ngạt thoảng bay xa gần,
Nơi kia cùng với đàn con,
Ves san ta chúa ẩn thân xuất trần.
Với y của bậc La môn,
Bát, thìa, tóc bện, Đạo Nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Người dân quê miêu tả nơi cư trú của Vua Vessantara như vậy, khiến Jùjaka thích thú đáp lễ và chào y qua vần kệ:
Nhận đây bánh lúa mạch non
Thảy đều được nhúng mật ong ngọt ngào.
Nhiều viên bánh mật khéo sao,
Ta nay đem biếu ông nào ăn đi.
Người dân quê đáp lại:
Cám ơn, tôi chẳng cần gì,
Giữ phần lương thực mà đi đường dài.
Lấy thêm lương thực tôi mời,
Rồi xin Ðạo Sĩ đến nơi ông cần.
Thẳng lên về phía thảo đường,
Lộ trình nơi ấy dẫn ông đến nhà
Ẩn nhân là Accata,
Răng đen, đầu bẩn, ly gia xuất trần.
Với y của bậc La Môn,
Bát, thìa, tóc bện, Đạo Nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Ðến kia, và hỏi con đường,
Rồi Ngài sẽ chỉ cho tường, Tôn ông.
Ðiều này nghe được vừa xong,
Lão quay bên phải, đi vòng Ceta,
Rồi đi tìm Accata,
Con tim rộn rã chan hòa hân hoan.
Jù ja ka tiến thẳng đường
Ðến khi lão đã bước gần thảo am,
Vào nơi ẩn sĩ trú thân,
Như vậy lão vội ân cần hỏi thăm:
Ta tin rằng, hỡi Thánh Nhân,
Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề ẩn am.
Ngài nay có bị phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài?
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Chẳng hay Ngài tránh mọi loài được chăng?
Vị khổ hạnh đáp:
Cám ơn Ngài, hỡi La Môn,
Ta nay thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề ẩn am.
Ta không phải chịu phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Ta đây tránh được mọi loài, Tôn ông.
Biết bao nhiêu tháng năm ròng
Mà ta đã sống trong vùng đất đây,
Những gì bệnh tật xưa nay,
Ta không hề thấy ở đây khi nào.
Bà La Môn hỡi, kính chào!
Mừng duyên hạnh ngộ đưa vào chốn đây.
Xin vào, ta chúc cầu may,
Và xin hãy rửa chân tay của Ngài.
Piyal, tin dook lá cây,
Kà su ma quả ngọt thay nồng nàn,
Trái cây như thể mật ong
Chọn ngay hạng nhất, La Môn, ăn nào.
Nước này lấy tự hang sâu
Ẩn mình dưới một đồi cao trong rừng,
Xin mời, hỡi bậc Thánh Nhân,
Uống vào cho thỏa tấm lòng ước mong.
Jùjaka nói:
Tôi xin nhận vật Ngài ban,
Và xin nhận lễ cúng dường, Tôn ông.
Tôi tìm con của Vương quân
Sañ ja ya bị lưu vong lâu rày,
Dân Si vi phán lệnh đày,
Xin cho tôi biết nơi Ngài ẩn thân.
Vị khổ hạnh đáp:
Ông tìm Si vi Ðại Vương
Mà không có ý thiện lương trong đầu,
Chắc ông cố ý mong cầu
Chiếm Vương Phi của Ngài đâu khó gì.
Kan hà cùng với Jà li
Làm gia nô với nữ tỳ nhà ông,
Hay ông tìm mẹ lẫn con
Nếu ông có thể cầu ơn Vua này,
Ngài không lạc thú gì đây,
Cũng không thực phẩm, tiền tài, Tôn ông.
Nghe vậy, Jùjaka nói:
Tôi không có ý bất lương,
Cũng không đến để cầu mong ơn Ngài.
Song nhìn người thiện tuyệt vời,
Vui thay sống với các người thiện lương.
Tôi chưa từng thấy Quân Vương,
Chính Ngài đã bị thần dân lưu đày.
Tôi mong diện kiến Vua này,
Xin ông cho biết nơi Ngài ẩn cư.
Vị Ðạo Sĩ kia tin lời lão:
Ðược rồi, ta sẽ nói với ông. Chỉ cần ở lại đây với ta hôm nay. Thế là vị ấy tiếp đãi lão đủ thứ củ quả rừng và hôm sau, đưa tay ra chỉ đường cho lão.
Vị ấy lại ngâm các vần kệ như trước:
Ðạo Sĩ ôi, núi đằng xa
Gan dha mà ấy chính là Hương Sơn,
Nơi Ves san ta Ðại Vương
Hiện đang sống với vợ con một đoàn.
Với y của bậc La Môn,
Bát, thìa, tóc bện, Đạo Nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Và vị ấy nói thêm:
Tàn cây tiêu nọ, thấy không,
Ở trên mảnh đất Tiên Thần khác đâu,
Bụi không hề thổi lên cao,
Cỏ kia xanh mãi chẳng bao giờ tàn.
Cỏ xanh tựa cổ chim công,
Sờ vào êm dịu nhu bông khác nào,
Mọc không quá bốn tấc cao,
Lúc nào cũng vậy, không bao giờ nhiều.
Ka pi, xoài, mận hồng đào,
Chùm sung lủng lẳng không cao, chín muồi,
Mọi cây có quả tốt tươi,
Mọc lên trong cánh rừng đồi xinh sao.
Trong veo dòng suối ngọt ngào
Xanh như ngọc bích rì rào chảy ngang,
Tung tăng cá lội từng đàn,
Vui đùa lên xuống khe ngàn lượn quanh.
Hồ nằm trong cảnh hữu tình
Với bao sen trắng sen xanh kế gần,
Khác nào ở chốn Thiên cung,
Trong vườn hoan lạc trên tầng Trời xa.
Có ba chủng loại Liên Hoa
Trong hồ khoe sắc cho ta thấy nào,
Sắc màu thay đổi biết bao
Xanh lơ, đỏ sẫm, trắng sao trắng ngần.
Như vậy vị ấy ca tụng hồ sen vuông góc kia và kế đó ca tụng hồ Mucalinda:
Hoa kia êm dịu như bông,
Hoa sen xanh thẫm, trắng ngần đua chen,
Nhiều cây cỏ khác mọc lên,
Mu ca lin chính là tên của hồ.
Ông nhìn hoa nở thật to,
Nơi kia vô số chen đua lục hồng,
Mùa hè hay dẫu mùa đông
Ðều cao đến tận gối ông đây này.
Hoa nhiều màu sắc đẹp thay
Theo làn gió nhẹ hương bay dịu dàng,
Rồi ông nghe tiếng rộn ràng
Của bầy ong đến theo làn hương đưa.
Chung quanh bến nước bờ hồ
Ðứng thành một dãy lô xô tiếp liền,
Kìa cây gụ, nọ hoa kèn,
Ka dam ba ngất nghểu lên cao hoài.
Loài hoa sáu cánh khoe tươi,
Nhiều cây hoa khác cùng cười rộ ra.
Lùm cây rậm rạp quanh hồ
Thảy đều đứng lặng để cho ta nhìn.
Cây kia đủ mọi dáng hình,
Hoa kia đua nở đẹp xinh đủ màu,
Các lùm cây rậm biết bao
Chen nhau cao thấp đón chào mắt ta.
Từng làn gió nhẹ hương đưa
Từ rừng hoa trắng, xanh lơ, đỏ hường,
Mọc lên quanh chốn thảo đường,
Nơi kia ngọn lửa được ươm nóng bừng.
Chung quanh bờ nước kế gần
Nhiều cây cỏ mọc quây quần thiết thân,
Cỏ cây vẫn cứ rung rung
Trong khi vang vọng tiếng ong thầm thì.
Mùi hương của vạn hoa kia
Mọc lên khắp chốn bờ khe, suối, hồ
Luyến lưu bên bạn lâu xa
Nếu như bạn giữ hai Ba Tuần liền.
Ba loài bầu, bí hiển nhiên
Mọc lên giữa hồ sen thế này,
Quả bằng bình nước trong tay,
Quả kia thật lớn sánh tày trống canh.
Tỏi, hành, hạt cải, súng xanh
Muôn hoa nở rộ trên cành dễ thương.
Hoa lài, ngào ngạt trầm hương,
Cát đằng rậm rạp vấn Vương cây hoài.
Ngọt ngào thay khóm hoa lài,
Cây chàm, bông vải, nhiều loài hữu danh,
Hoa kèn, rau diếp mọc quanh
Khác nào ngọn lửa vàng hanh nắng Trời.
Thưa vâng, mỗi loại hoa tươi
Mọc ra trong nước hay trồi đất lên
Chung quanh hồ nước Thần Tiên
Hãy nhìn chúng sống đua chen quây quần.
Nơi kia bầy sấu vẫy vùng,
Mọi loài thủy tộc ẩn thân chốn này.
Những đàn hươu đỏ thường ngày
Cùng nhiều thú khác tìm đây nước nguồn.
Nghệ vàng, long não, cỏ hương,
Hạt thơm, cam thảo thân vươn cao ngồng.
Nơi kia sư tử, voi rừng,
Cọp vằn tìm kiếm bạn lòng dấu yêu,
Từng bầy hươu đỏ, hươu sao,
Chó hoang, nai hoẵng dáng cao lẹ làng.
Chồn bay, trâu yak, linh dương,
Những bầy lớn nhỏ khỉ rừng lao xao,
Gấu, bò, mãnh thú biết bao,
Từng đàn dồn dập đi vào dọc ngang.
Tê ngưu, sóc nhỏ, chuột hoang,
Chó săn, trâu nước, giả can, heo rừng,
Tắc kè, beo gấm, sói lang,
Thỏ rừng, chồn nhỏ từng đàn ra vô.
Ðủ loài rắn, nhện giăng tơ,
Ðủ loài chim chóc líu lo trên cành,
Tạo nên đủ loại âm thanh
Trong khi chiêm chiếp lượn quanh lòng vòng.
Diều hâu, cú, diệc, gà rừng,
Sơn ca với tiếng du dương đồng hòa,
Trĩ, ưng, công với thiên nga,
Hạc, chim lưng đỏ hòa ca bạn tình.
Nơi kia dịu ngọt âm thanh
Sắc màu rực rỡ dáng hình chim muông:
Cổ xanh, mào trắng, lục hồng
Như công, vỗ cánh phập phồng bay lên.
Sao ta cố kể ngàn tên
Ðủ từng chi tiết chẳng quên thế này?
Hãy suy đủ loại chim bay,
Và đem chúng lại thêm đầy thơ ta.
Cả đàn chim chóc đồng hòa
Du dương ngàn khúc hoan ca tưng bừng,
Ngập tràn đầy giữa khoảng không
Hồ Mu ca với tiếng ồn vui tai
Khu rừng có đủ loài voi,
Linh dương, các loại hươu nai thiếu gì.
Lòng thòng từ các cây kia
Cát đằng to lớn từng bè quấn ngang.
Nơi kia hạt cải, mía đường,
Nhiều loài thóc gạo mọc vươn cao dày.
Ðậu, mè, dược thảo quý thay
Sẵn sàng cung cấp đủ đầy khách thăm.
Ðằng kia có lối đường mòn
Ðưa ông đến chốn ẩn thân của Ngài.
Nơi kia đói khát không ai,
Cũng không hề thấy mảy may chán chường.
Nơi kia cùng với các con.
Ves san ta bậc Ðại Vương lánh trần.
Với y của bậc La Môn,
Bát, thìa, tóc bện, Đạo Nhân khác nào.
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Việc này khi đã nghe xong,
Quanh Ngài bên phải, lão vòng bước ra,
Ði tìm Vua Ves san ta
Tâm hồn rộn rã chan hòa niềm vui.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Nhất Tự Kỳ đặc Phật đảnh - Phẩm Năm - Phẩm Thành Tựu Tỳ Na Dạ Ca
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Hư Không Dựng - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh đại Không Pháp
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Sangarava
Phật Thuyết Kinh Thiết Thành Nê Lê