Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Mốt - Phẩm Hai - Phẩm Tám Mươi Bài Kệ Số Hai - Phần Sáu - Chuyện đàn Kim Nga

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP MƯỜI

CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT  

CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT  

PHẨM HAI

PHẨM TÁM MƯƠI BÀI KỆ SỐ HAI  

PHẦN SÁU

CHUYỆN ĐÀN KIM NGA  

Tương truyền ngày xưa chín mươi ngàn thiên nga sống ở kim động trên đỉnh núi Cittakùta. Suốt bốn tháng mùa mưa, chúng không di chuyển ra ngoài. Nếu chúng làm vậy, đôi cánh chúng sẽ ướt sũng nước, chúng sẽ không thể bay xa và sẽ rơi xuống biển.

Do đó chúng không đi ra ngoài. Nhưng khi mùa mưa đến, chúng nhặt thóc lúa hoang ở một cái hồ thiên nhiên đem về chất đầy hang và sống bằng thóc lúa.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi không vào hang, thì một con nhện unnanabhi to bằng cái bánh xe ở cửa hang vẫn thường giăng tơ hằng tháng, mỗi sợi tơ của nó to bằng sợi dây thừng bò. Ðàn thiên nga cho một thiên nga còn trẻ hai phần thức ăn vì nghĩ rằng nó có thể phá thủng màn nhện kia.

Khi Trời trở nên quang đãng, con thiên nga trẻ này đứng trước chúng phá hủy màn nhện và cả đoàn thoát ra bằng cách này.

Bấy giờ có một mùa mưa kéo dài năm tháng nên lương thực của đàn thiên nga cạn dần, chúng hỏi ý kiến nhau phải làm gì, rồi nói: Nếu muốn sống, chúng ta phải lấy trứng. Trước hết, chúng ăn trứng, rồi đến lượt ngỗng con và kế đó là ngỗng già. Sau năm tháng mùa mưa chấm dứt, con nhện đã giăng năm màn lưới to tướng, còn đàn thiên nga, vì ăn thịt đồng loại chúng, đã trở nên yếu đuối.

Con ngỗng trẻ kia đã nhận phần ăn gấp đôi, cố phá vỡ được bốn màn nhện, nhưng không thể phá nổi màn thứ năm và bị dính chân vào đó. Thế rồi con nhện cắt đầu nó và hút máu.

Hết ngỗng đầu rồi đến lượt ngỗng thứ hai đến phá màn nhện, con nhện suy nghĩ: Ðây lại thêm một con ngỗng nữa dính vào chỗ ấy, và hút máu cả bầy, thời bấy giờ dòng giống thiên nga dhatarattha phải tuyệt diệt, tương truyền như vậy.

Vua nôn nóng kể thêm một chuyện chứng minh, nhưng đám thị dân đứng lên nói: Thưa Ðại Tướng, Ngài đề nghị phải làm gì?

Ngài sẽ tiến hành ra sao vì nay Ngài đã bắt được tên ăn thịt người dã man ấy?

Nếu y không từ bỏ việc ấy, hãy sai người đuổi y ra khỏi Vương Quốc này. Và quần chúng không chịu để cho Vua nói lời nào nữa.

Khi nghe câu chuyện chung của quần chúng, Vua kinh hoảng không nói gì thêm, và một lần nữa vị đại tướng hỏi Vua: Tâu Ðại Vương, Ngài có thể từ bỏ việc ấy chăng?

Không thể được.

Vua đáp: Thế rồi vị đại tướng sắp vào một phía tất cả hậu cung của Vua, gồm các Vương Tử và Công Chúa trang sức thật lộng lẫy và nói: Tâu Ðại Vương, hãy ngắm vòng quyến thuộc, đám cận thận và cảnh huy hoàng Vương giả của Ngài, xin đừng để Ngài phải tiêu tan tất cả, mà xin Ngài hãy ngừng ăn thịt người.

Vua đáp: Tất cả mọi thứ này không còn thân thiết với ta hơn món thịt người. Vậy xin Ðại Vương hãy ra đi khỏi Kinh Thành và Quốc Độ này.

Kàlahatthi, Vua đáp ta không cần Quốc Độ, ta sẵn lòng ra đi nhưng hãy cho ta một ân huệ: Hãy cho ta lấy thanh kiếm và người đầu bếp của ta. Do đó, họ cho Vua lấy một cây kiếm, một cái nồi để nấu thịt người, và một cái thùng cùng người đầu bếp, họ đuổi Vua ra khỏi xứ sở.

Ðem theo người đầu bếp, Vua ra khỏi Kinh Thành, đi vào rừng làm chỗ cư trú dưới gốc cây đa. Khi sống ở đó Vua thường đứng trên con đường đưa vào rừng, và giết người, đem xác về đưa cho người đầu bếp, y nấu thịt, dọn lên và cả hai đều sống theo cách ấy.

Mỗi khi Vua xông ra, hét lớn: Ta đây là tên cướp ăn thịt người! Không ai đứng vững được nữa, họ đều ngã xuống đất, người nào Vua thích thì Vua cứ tóm lấy, xách chổng ngược chân lên Trời hay không đều có thể cả, rồi đưa cho người đầu bếp.

Một hôm, Vua không tìm ra người nào trong rừng cả khi về nhà, người đầu bếp hỏi:

Tâu Ðại Vương, thế nào đây?

Vua bảo y đặt nồi lên lò lửa.

Nhưng thịt đâu, tâu Ðại Vương?

Ồ ta sẽ tìm ra thịt mà. Vua đáp.

Người đầu bếp suy nghĩ: Thôi chết ta rồi?

Và vừa run rẩy, y vừa nhóm bếp và đặt nồi lên lò. Sau đó kẻ ăn thịt người giết y với một nhát kiếm và nấu thịt ăn.

Từ đó Vua hoàn toàn cô độc và phải nấu ăn cho mình.

Tiếng đồn vang dậy khắp Cõi Diêm Phù Đề Ấn Ðộ: Kẻ ăn thịt người kia giết hại khách qua đường.

Thời ấy có một vị Bà La Môn giàu đang đi buôn với năm trăm cỗ xe hàng hóa từ Ðông sang Tây và suy nghĩ: Dân chúng đồn rằng kẻ ăn thịt người ấy giết người trên xa lộ. Ta sẽ đi xuyên qua rừng này bằng cách trả tiền mãi lộ. Thế là ông trả một ngàn đồng tiền cho đám dân sống ở lối đi vào rừng, dặn họ chở ông an toàn qua khu rừng rồi lên đường cùng với họ.

Ông đặt cả đoàn xe đi trước và sau khi tắm gội, xoa dầu thơm và phục sức lộng lẫy, ông ngồi vào chiếc xe êm ái do đôi bò trắng kéo, và được cả đoàn hộ tống, ông khởi hành cuối cùng.

Kẻ ăn thịt người trèo lên cây ngồi rình đợi người, nhưng dù y không cảm thấy thèm ăn bất cứ người nào trong đoàn xe, vừa chợt thấy vị Bà La Môn thì nước miếng trong mồm y nhỏ ra vì thèm ăn thịt vị ấy.

Khi vị Bà La Môn đến gần, y xưng danh hiệu thét lớn: Ta là tên cướp ăn thịt người đây?

Vừa vung kiếm lên giống như một người tung cát mù mắt kẻ khác, y nhào tới đoàn người và không ai có khả năng chống cự lại y, mà tất cả đều ngã sống soài xuống đất.

Vừa chụp lấy chân vị Bà La Môn đang ngồi trên chiếc xe êm ái kia, tên cướp ném ông lên lưng mình, đầu dốc ngược xuống đất, đập mạnh vào gót chân y trong khi kéo ông đi xa.

Ðám người kia đứng dậy kêu nhau: Này bạn hãy dậy mau lên. Ta đã nhận một ngàn đồng tiền từ tay vị Bà La Môn.

Ai trong bọn ta ra dáng nam nhi đây?

Cả bọn ta dù mạnh hay yếu, đều phải đuổi theo nó một đoạn đường. Họ đuổi theo y và kẻ ăn thịt người dừng lại nhìn lui khi không thấy ai, lại tiếp tục đi chầm chầm.

Lúc ấy một người bạo gan chạy hết tốc lực bắt kịp y. Khi thấy gã kia, kẻ cướp nhảy lên một hàng rào, dẫm nhầm một mảnh gỗ cây keo nhô ra ở đầu bàn chân khiến y bị thương, phải lê bước trong khi máu rỉ ra từ vết thương.

Lúc ấy người đuổi theo thấy vậy liền nói: Chắc chắn ta đã làm y bị thương, các bạn cứ bám sát theo, ta sẽ bắt được y. Họ thấy y yếu sức quá liền họp sức đuổi bắt y. Khi thấy mình bị đuổi theo y, kẻ cướp thả vị Bà La Môn và tìm cách thoát thân.

Ðám người hộ tống vị Bà La Môn suy nghĩ ngay khi cứu được ông: Chúng ta phải làm gì với kẻ cướp này nữa rồi quay về.

Còn kẻ ăn thịt người đi đến gốc đa, nằm xuống giữa đám cây con và khấn vái Thần cây này: Lạy Nữ Thần cây, nếu trong bảy ngày bà có thể làm lành vết thương của ta, thì ta nguyện sẽ tẩm thân cây bằng máu lấy từ cổ họng của một trăm lẻ một Vương Tử khắp Cõi Diêm Phù Đề, và treo ruột gan chúng quanh thân cây rồi dâng lễ tế đàn bằng năm loại thịt ngon ngọt.

Bấy giờ do y không có gì để ăn uống, thân thể y hao mòn dần và trong bảy ngày, vết thương đã lành.

Y nhận thấy y lành bệnh là nhờ Nữ Thần cây đa, và chỉ trong vài ngày, y phục hồi sức mạnh bằng cách ăn thịt người, nên y suy nghĩ: Vị thần đã giúp đỡ ta rất nhiều. Ta phải thực hiện lời thề nguyện ấy. Y cầm kiếm xông ra từ gốc cây và lên đường với mục đích đem về các Vương Tử.

Bấy giờ, một thần Dạ Xoa, đã từng làm bạn đường cùng đi đây đó với y và cùng ăn thịt người, vì trong một tiền kiếp, y cũng đã là một Dạ Xoa, chợt trông thấy y và biết rằng trong một tiền kiếp y chính là bạn mình, liền hỏi: Này bạn có nhận biết ta chăng?

Ta không biết. Sau đó Dạ Xoa kể cho kẻ cướp nghe một việc mà cả hai đã cùng làm trong đời trước, kẻ ăn thịt người nhận ra bạn và chào hỏi ân cần. Khi được hỏi tái sinh thời nào, ở đâu, y kể cho bạn nghe nơi sinh trưởng của mình, trước kia đã bị đuổi ra khỏi Vương Quốc ra sao và hiện đang ở đâu.

Y còn kể thêm cho bạn nghe y đã bị thương vì mảnh gỗ như thế nào và bây giờ y đang viễn du để giải lời thề với vị Nữ Thần cây.

Ta sẽ phải vượt qua nỗi gian khổ này nhờ sự trợ giúp của bạn: Này bạn, chúng ta hãy cùng đi.

Y nói: Ta không đi được, nhưng có việc này ta có thể giúp bạn. Ta biết chắc chắn một lá bùa đặc biệt có lời quý vô giá. Nó giữ vững sức mạnh, tốc độ của đôi chân và tăng cường uy lực. Hãy học bùa chú này.

Y đồng ý ngay và vị Quỷ Thần trao bùa cho y rồi ra đi. Kẻ ăn thịt người học thuộc lòng Thần Chú ấy, từ đó y đi nhanh như gió và rất gan dạ.

Trong vòng bảy ngày y tìm được một trăm lẻ một vị Vua đang đi trên đường tới ngự viên và nhiều nơi khác, y chồm lên các vị ấy nhanh như gió cuốn, xưng Danh Hiệu xong, y nhảy quanh và hét lớn khiến họ kinh hoảng. Rồi y nắm lấy chân họ, dốc ngược đầu xuống đất, mang đi thật nhanh như gió cuốn.

Kế đó, y đục lỗ trong lòng bàn chân họ và treo họ lên bằng dây trên cây đa, gió đánh lên họ khi họ vừa chạm đầu ngón chân xuống đất, họ treo lủng lẳng trên cây, quay cuồng như chuỗi hoa héo trong giỏ.

Nhưng kẻ ăn thịt người lại suy nghĩ: Sutasoma là thầy giáo riêng của ta. Ðừng để cho toàn Cõi Diêm Phù Đề phải suy tàn. Vì thế y không mang vị ấy về. Khi có ý định dâng lễ tế Thần cây, y nhóm lửa và ngồi xuống mài cọc nhọn.

Vị Nữ Thần cây suy nghĩ: Y chuẩn bị dâng lễ tế đàn cho ta, nhưng không phải chính ta đã chữa lành vết thương của y. Nay y sắp làm một việc sát sinh trọng đại.

Phải làm gì đây?

Ta không đủ khả năng ngăn cản y. Vì thế bà vội đi kể với Tứ Ðại Thiên Vương về sự việc này và xin các vị ngăn cản y. Khi các vị đáp không thể làm việc ấy, bà đến yết kiến Sakka Thiên Chủ, kể cho Ngài toàn thể câu chuyện và xin Ngài ngăn cản y.

Ngài nói: Ta không thể làm việc ấy, nhưng ta sẽ chỉ cho ngươi một người có thể làm được.

Ðó là ai?

Bà hỏi.

Trong Thế Giới Chư Thiên và loài người, không có ai khác ngoại trừ Sutasoma, Vương Tử xứ Kuru ở trong Kinh Thành Indapatta. Ngài sẽ giáo hóa cho y thuần thục, sẽ điều phục y để cứu mạng các Vua kia, chữa cho y khỏi bệnh ăn thịt người và tưới nước cam lồ khắp Cõi Diêm Phù Đề.

Nếu ngươi muốn cứu mạng các Vua kia, hãy bảo y trước tiên phải đem Sutasoma đến rồi dâng lễ tế đàn lên cây. Thật chí lý. Vị Thần đáp. Rồi bà vội vàng ra đi, giả dạng một Ẩn Sĩ đến gần kẻ ăn thịt người.

Nghe tiếng chân, y nghĩ thầm: Một Vua nào đó đã trốn thoát được chăng?

Vừa nhìn lên thấy Ẩn Sĩ, y lại nghĩ: Các Ẩn Sĩ chắc chắn đều là Sát Đế Lỵ quý tộc. Nếu ta bắt được nó, ta sẽ làm tròn con số một trăm lẻ một Vua và dâng lễ. Y đứng lên mang kiếm trong tay đuổi theo ẩn sĩ nhưng dù y đã săn lùng vị ấy suốt ba dặm đường, y vẫn không bắt kịp vị ấy và mồ hôi đổ ròng ròng khắp tứ chi.

Y nghĩ thần: Trước kia ta từng đuổi theo và bắt được voi, ngựa hoặc xe chạy hết tốc lực, nhưng hôm nay dù ta đã chạy hết sức mình cũng không thể bắt được vị Ẩn Sĩ này vẫn đang đi thật tự nhiên.

Vì lý do gì vậy?

Rồi y lại nghĩ: Các Ẩn Sĩ thường có thói quen vâng lời: nếu ta bảo vị ấy dừng lại và vị ấy làm theo, ta sẽ bắt lấy.

Y liền kêu lớn: Thánh Giả, hãy đứng lại: Ta đang đứng đây. Vị ấy đáp ngươi cũng thử đứng lại nào.

Y đáp: Ô kìa, các Ẩn Sĩ dù có phải cứu mạng mình cũng không nói dối, nhưng Ngài lại nói dối đấy.

Và y ngâm kệ:

Mặc dù ta bảo đứng yên ngay,

Ngài vẫn phóng mình tựa gió bay,

Ngài lại thét: Này! Ta đứng đó!

Chắc là Ngài nói dối ta đây.

Chuyện này quả thật không phù hợp.

Ẩn Sĩ ôi! Mang lấy kiếm này,

Ngài phải giả làm tên bất hại

Ðiểm lông chim hạc trắng, con mây.

Kế đó Nữ Thần đáp đôi vần kệ:

Ta vẫn lòng theo đạo chánh chân,

Chẳng thay tên họ hoặc thân nhân,

Cường gian đây sống đời phù phiếm,

Phút chốc đọa vào ngục khổ thân.

Can đảm lên đi, hỡi chúa công,

Bắt Soma vĩ đại anh hùng,

Ðem về đây để Ngài dâng lễ

Sẽ đạt Thiên Đường, có biết không?

Cùng với những lời này, Nữ Thần cởi lớp áo giả dạng Ẩn Sĩ và xuất lộ nguyên hình, chói sáng giữa bầu Trời như vầng nhật. Kẻ ăn thịt người nghe bà nói và ngắm hình dung bà, liền hỏi bà là ai.

Khi nghe bà đáp bà ra đời làm vị Thần cây này, y thích thú nghĩ thầm:

Ta đã trông cậy thần hộ mạng của ta rồi và nói: Thưa Nữ Thần tiên, xin đừng lo ngại về Sutasoma, mà xin Ngài hãy nhập vào thân cây lần nữa. Vị Thần nhập vào thân cây ngay trước mắt y. Vừa lúc ấy mặt trời lặn và mặt trăng lên.

Kẻ ăn thịt người vốn tinh thông các Kinh Vệ Đà và các sách bổ sung vào Kinh ấy, lại quen với cách vận hành của các thiên thế, nên khi nhìn lên Trời, y suy nghĩ: Ngày mai sẽ có chòm sao Phussa xuất hiện, Sutasoma sẽ đến tắm ở ngự viên và ta sẽ ra tay với Vua ấy. 

Nhưng vì Vua ấy có một vệ sĩ lực lưỡng và dân chúng khắp Cõi Diêm Phù Đề sẽ đến hộ vệ Vua trong vòng ba dặm, vậy vào canh một trước khi vệ sĩ đóng quân, ta sẽ đến ngự viên Migàcira, xuống hồ hoàng gia và đứng đó.

Thế rồi y xuống hồ và đứng đó, che đầu bằng ngọn lá sen. Do uy lực vĩ đại của y, các loài cá, rùa đều lùi lại phía sau và bơi quanh từng đàn lớn bên bờ nước.

Ta có thể hỏi: Do đâu y lại có cảnh vinh quang này?

Ðó là do lòng mộ đạo của y trong đời trước. Vào thời Đức Phật Kassapa Ca Diếp, y bắt đầu phân phát sữa theo phiếu. Nhờ vậy, y trở thành người rất có thế lực, và sau khi bảo Tăng Chúng dựng sảnh đường để đốt lửa chống mùa lạnh, y cúng dường lửa, củi và cái rìu chẻ củi. Do kết quả việc này, y rất nổi tiếng.

Vì thế bây giờ, khi y vào ngự viên, Trời chỉ vừa rạng đông, quân sĩ đã canh phòng suốt ba dặm đường chung quanh, còn Vua Sutasoma, sau buổi điểm tâm lúc sáng sớm, đã ngự lên mình voi được tô điểm yên cương thật lộng lẫy, với bốn đội quân hùng hậu hộ giá tiến ra khỏi Kinh Thành.

Ngay lúc ấy, một Bà La Môn tên Nanda đi từ Takkasilà, mang theo bốn vần kệ, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền, vừa đến Kinh Thành sau cuộc hành trình, dài một trăm hai mươi dặm, và trú ngụ ở một vùng ngoại ô.

Vừa rạng đông, vị ấy vào thành thấy Vua đang ngự xa giá đi qua đông môn, liền giơ tay lên hô lớn: Vạn tuế Ðại Vương!

Bấy giờ Vua bị viễn thị, trong khi đang cỡi voi, Vua thấy cánh tay giơ lên của vị Bà La Môn đang đứng trên một mô đất cao, liền tiến đến gần trên mình voi vừa ngâm kệ vừa hỏi như sau:

Trẫm hỏi Ngài sinh ở xứ nào,

Ðến đây, Ðạo Sĩ hỡi, vì sao?

Nói rồi, nay trẫm liền ban tặng

Bất cứ điều chi đấy nguyện cầu.

Kế đó vị Bà La Môn đáp lời Vua:

Bốn vần thi kệ, tấu Quân Vương,

Ý nghĩa sâu xa tựa hải dương,

Mang đến đây, xin nghe thật kỹ

Cao siêu huyền bí thảy am tường.

Vị ấy tiếp: Tâu Ðại Vương, bốn vần thi kệ này do Đức Phật Kassapa dạy tiểu thần, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền. Sau khi nghe xong, nếu Ðại Vương muốn dâng tế lễ nước trái cây soma, tiểu thần sẽ đến chỉ dẫn Ðại Vương.

Vua vô cùng hân hoan phán: Này Tôn Sư, Ngài khéo làm việc này lắm, nhưng hôm nay trẫm không trở về triều được. Hôm nay là ngày giao hội của chòm sao Phussa, là ngày Trẫm đi gội đầu. Khi trở về, Trẫm sẽ nghe lời Ngài. Xin đừng phật ý vì trẫm.

Cùng với những lời này, Vua ra lệnh đám Quần Thần: Các khanh đến nhà một Bà La Môn nào đó chuẩn bị một sàng tọa và sắp đặt một nơi ăn dưới mái hiên. Xong Vua đi vào ngự viên.

Khu vườn được bao bọc bởi một tường thành cao mười tám cubit, 1 cubit: 45 cm và được bầy voi canh phòng chung quanh đứng kề sát nhau. Kế tiếp là bầy ngựa, đoàn xe, cuối cùng là đám xạ thủ và các bộ binh khác. Thật giống như cả đại dương dậy sóng là đạo quân được di chuyển đến đây.

Sau khi đã trút bỏ các vật trang sức nặng nề và được cạo râu, gội đầu với dầu thơm rồi, Vua đi tắm hồ sen trong dáng diện uy nghi cao quý, và khi bước ra khỏi nước, Vua đứng đó trong bộ áo tắm, quân hầu liền đem vòng hoa thơm ngát đến trang điểm cho Ngài.

Kẻ ăn thịt người suy nghĩ: Khi đã phục sức đầy đủ, Nhà Vua hẳn sẽ nặng lắm. Ta muốn bắt lấy Vua khi còn nhẹ để mang đi.

Thế rồi vừa thét lớn vừa nhảy quanh và vung kiếm trên đầu nhanh như chớp, y xưng danh hiệu xong liền nói to: Này, ta đây là kẻ cướp ăn thịt người. Rồi đặt ngón tay trên trán Vua, y bước ra khỏi nước. Ngay khi nghe tiếng thét, các quản tượng cùng đàn voi, các kỵ mã cùng đàn ngựa, các quản xe cùng đàn xe đều ngã xuống đất, cả đoàn quân sĩ đều thả vũ khí đang cầm và nằm sát xuống bụng.

Kẻ ăn thịt người chụp lấy Sutasoma dựng Ngài thẳng đứng lên. Tất cả đám Vương Tử trước kia, y đều bắt lấy từ bàn chân và dốc ngược đầu xuống đất, rồi kéo lê họ đi khiến đầu họ đập vào gót chân y, nhưng nay đến gần Bồ Tát, y cúi xuống nhắc Ngài lên và đặt trên vai mình.

Nghĩ rằng có lối đi quanh qua cổng thành, y nhảy lên bức thành cao mười tám cubit, ngay tại điểm đối diện con đường ấy, y vừa tiến lên vừa dẫm chân lên trán bầy voi làm rỉ ra chất dịch, lật nhào chúng xuống như thể các đỉnh núi.

Kế đó y dẫm chân lên lưng bầy ngựa, dù thường ngày chúng nhanh như gió và quý vô cùng, rồi cũng đạp chúng ngã xuống đất.

Sau đó, y bước lên mặt trước của các cỗ xe lộng lẫy chẳng khác gì người quay con vụ con cù, hay như thể người dẫm nát cây Phalaka xanh biếc hay đám lá bàng, và thoắt một cái, y đã chạy xa ba dặm. Rồi muốn biết có ai chạy theo để cứu Sutasoma không, y nhìn lên và thấy không ai, y lại đi chầm chậm.

Khi nhận ra những giọt nước rơi xuống mình từ tóc Sutasoma, y nghĩ thầm: Không ai sống mà khỏi sợ chết.

Chắc có lẽ Sutasoma cũng đang khóc vì sợ đấy, và y ngâm kệ:

Những bậc uyên thâm, các trí nhân

Tư duy cao cả phát sinh luôn,

Chẳng bao giờ khóc, tìm an trú

Bậc Thánh xua tan nỗi khổ buồn.

Có phải vợ con hoặc họ hàng,

Bản thân, kho thóc, bạc hay vàng,

Ðã làm lệ chảy, So Ma hỡi,

Ðại đế Ku Ru, đáp rõ ràng.

Sutasoma đáp:

Không khóc gì cho chính bản thân,

Vợ con, đất nước hoặc kho tàng,

Thánh hạnh ngày xưa ta vẫn giữ,

Khóc vì lời hứa chẳng chu toàn.

Trước một La Môn, đã hứa lời,

Khi ta trị nước với quyền oai,

Lời kia ta ước mong gìn giữ

Danh dự cứu xong, trở lại Ngài!

Kẻ ăn thịt người đáp lại:

Ta chẳng tin rằng có thế nhân

Vận may thoát móng tử ma thần,

Trở về nộp mạng cho cừu địch,

Nếu để Ngài đi, chẳng phục hoàn.

Thoát kè sát nhân ác, trở về

Hoàng Cung, mộng ước đẹp tràn trề,

Cuộc đời thân thiết đầy lôi cuốn

Hồi phục cho Ngài phải đắm mê.

Vì lý do gì trên Thế Giới

Mà Ngài trở lại với ta hề?

Khi nghe lời này, bậc Ðại Sĩ vẫn gan dạ như sư tử, đáp:

Vô tội, con người thích chết hơn

Sống mang đầy tội đáng khinh nhờn,

Nếu vì cứu mạng, buông lời dối

Người chẳng thoát đâu ngục khổ buồn.

Gió có thể lay chuyển núi cao,

Trời, trăng rụng xuống cõi trần lao,

Thưa Ngài, và mọi dòng sông cạn,

Nhưng vọng ngôn, ta chẳng phạm vào.

Dù Ngài nói vậy, kẻ ăn thịt người vẫn không tin Ngài.

Do đó, Bồ Tát suy nghĩ: Kẻ này không tin ta.

Ta quyết làm cho y tin bằng một lời thề, và bảo: Thưa Tôn Giả ăn thịt người, xin hãy thả ta xuống khỏi lưng, ta sẽ thề nguyền khiến Ngài tin ta.

Sau những lời này, Ngài được kẻ ăn thịt người đưa xuống, đặt trên mặt đất và Ngài phát nguyện:

Này! Khi ta chạm kiếm, đao này,

Thề nguyện trang nghiêm trước mặt Ngài,

Hãy thả ta và ta thoát nợ,

Cứu xong danh dự, trở về đây.

Lúc ấy kẻ ăn thịt người nghĩ thầm: Vua Sutasoma này thề chịu hình phạt nếu vi phạm luật lệ dòng Khattiya Sát Đế Lỵ, võ tướng.

Ta còn muốn gì với vị ấy nửa?

À, ta cũng là một Vua Sát Đế Lỵ. Ta sẽ lấy máu từ chính cánh tay mình và tế lễ Thần cây. Ðây thật là một chàng trai rất nhát gan.

Rồi y ngâm kệ:

Trước một La Môn, đã hứa lời,

Khi Ngài trị nước với quyền oai,

Lời kia, ta phải bắt Ngài giữ,

Danh dự cứu rồi, trở lại thôi.

Sau đó bậc Ðại Sĩ nói: Này hiền hữu, xin chớ phật lòng. Sau khi ta đã nghe bốn vần kệ kia, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền, và dâng lễ cúng dường vị Pháp Sư xong, ta sẽ trở lại vào lúc rạng đông.

Và Ngài ngâm kệ này:

Trước một La Môn đã hứa lời,

Khi ta trị nước với quyền oai,

Lời kia ta ước mong gìn giữ,

Danh dự cứu xong, trở lại Ngài.

Kẻ ăn thịt người đáp: Ngài đã thề chịu hình phạt nếu vi phạm phong tục của dòng Sát Đế Lỵ. Ngài hãy cẩn thận hành động cho đúng phép.

Ngài nói:

Này hiền hữu ăn thịt người, Ngài đã biết ta từ bé: Trước kia ta chưa bao giờ nói dối dù để đùa chơi, còn nay ta đã được lên ngai vàng và biết điều phải trái thì sao ta nói dối được?

Hãy tin ta, ta sẽ dâng lễ vật tế đàn cho hiền hữu.

Ðược thúc giục phải tin tưởng Ngài, y đáp: Thôi được, Ðại Vương hãy ra đi, và nếu Ðại Vương không trở lại thì sẽ không có tế lễ và Thần cây cũng không chấp nhận lễ nếu không có Ðại Vương. Vậy đừng làm trở ngại việc dâng lễ của ta.

Rồi y để bậc Ðại Sĩ ra đi. Giống như mặt trăng thoát khỏi móng vuốt của thần Rahu La hầu và với sức mạnh của một chú voi còn trẻ, Ngài nhanh chân về đến Kinh Thành.

Còn đám quân sĩ của Ngài suy nghĩ: Ðại Vương Sutasoma là Bậc Hiền Trí và là vị Pháp Sư tuyệt hảo. Nếu Ngài có thể nói một hai lời với y, Ngài sẽ cảm hóa y và trở về như con voi dũng mãnh thoát khỏi mồm sư tử.

Rồi họ lại nghĩ:

Dân chúng sẽ khiển trách chúng ta và nói: Sau khi bỏ mặc Đức Vua của các ông cho kẻ ăn thịt người, các ông còn trở lại với bọn này ư?

Vì thế họ cắm trại ngoài Kinh Thành và khi chợt thấy Ngài từ xa đi đến, họ bước ra đón Ngài, đảnh lễ ân cần và thưa: Tâu Ðại Vương, Ngài không khiếp sợ kẻ ăn thịt người ấy ư?

Ngài đáp: Kẻ ăn thịt người ấy đã làm một việc khó khăn hơn bất cứ việc gì song thân ta đã làm. Là một kẻ hung tàn bạo ngược như vậy mà sau khi nghe ta Thuyết Pháp, y đã để ta đi. Sau đó, quân hầu trang điểm xiêm y cho Ngài xong, đưa Ngài lên lưng voi và hộ tống Ngài về Kinh.

Khi thấy Ngài, dân chúng hân hoan, và do lòng nhiệt thành của Ngài đối với pháp, Ngài không đi viếng song thân mà lại nghĩ: Ta sẽ thăm cha mẹ sau, và Ngài vào cung điện ngự lên ngôi báu. Rồi Ngài triệu vị Bà La Môn đến, ra lệnh cạo râu cho ông, sau khi râu tóc được tỉa xong, ông được tắm rửa, xoa dầu thơm và phụ sức xiêm y lộng lẫy và họ đưa ông đến trước ngôi Vua.

Khi vị Bà La Môn đã được đưa vào yết kiến, chính Vua Sutasoma cũng đi tắm gội, sau đó và ra lệnh đem ngự thiện của Ngài dâng vị Bà La Môn. Ðến khi vị Bà La Môn đã thọ thực xong, chính Vua mới dùng phần ngự thiện ấy.

Sau đó, Ngài đặt vị Bà La Môn lên một bảo tọa và để tỏ lòng tôn kính, Ngài cúng dường vị ấy các tràng hoa thơm cùng các lễ vật tương tự, rồi chính Ngài ngự trên một bảo tọa thấp và thỉnh cầu vị kia: Thưa Tôn Sư, chúng ta muốn nghe các vần kệ mà Tôn Sư đã đem đến cho chúng ta.

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

Thoát tay tàn bạo, giết nhân dân,

Ðến Ðạo Sĩ, người bạn thiết thân,

Ngài bảo: Chúng ta đều ước muốn

Nghe bài thi kệ giá trăm đồng,

Nếu Ngài chiếu cố ban lời dạy,

Lợi lạc chúng ta được hưởng phần.

Khi Bồ Tát thỉnh cầu, vị Bà La Môn liền rửa tay với nước hoa rồi rút ra một quyển sách đẹp từ túi xách, cầm sách cả hai tay và nói: Tâu Ðại Vương, xin hãy nghe bốn vần kệ của tiểu thần, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền. Chúng đã được Đức Phật Kassapa dạy cho tiểu thần.

Chúng có đặc tính hủy diệt tham đắm, kiêu mạn và các ác hạnh tương tự, chúng tạo cho con người khả năng tiêu trừ dục vọng, an tịnh các căn, thậm chí đưa đến Niết Bàn có uy lực vĩnh cửu, đoạn diệt khát ái, chặt đứt vòng luân hồi và nhổ tận gốc chấp thủ.

Cùng với những lời này, ông nhìn vào sách và ngâm các vần kệ sau:

Hãy hòa hợp với Thánh Hiền Nhân,

Này hỡi Soma, chỉ một lần,

Và chớ bao giờ thân kẻ ác,

Bình an tràn ngập khắp toàn thân.

Thường xuyên giao kết với Hiền Nhân,

Chỉ nhận Hiền Nhân chính bạn thân,

Học chánh lý từ bao Bậc Thánh,

Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.

Như các xe Vua khéo điểm trang

Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,

Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,

Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.

Song Ðạo Thánh Hiền Nhân vĩnh cửu,

Chẳng hề tàn tạ với thời gian,

Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện

Qua các thời chưa được bảo ban.

Bầu Trời giăng rộng rãi bao la,

Quả đất trải dài ở dưới ta,

Lãnh thổ bên kia bờ đại hải,

Chúng ta đều biết thật là xa.

Song còn vĩ đại hơn muôn vật,

Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra

Là Ðạo lý về điều thiện, ác

Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.

Như vậy vị Bà La Môn đã dạy Ngài bốn vần kệ, mỗi vần trị giá một trăm đồng, đúng như trước kia đã được Đức Phật Kassapa thuyết giảng, rồi ông ngồi yên lặng.

Bậc Ðại Sĩ rất hoan hỷ nghe kệ và bảo: Chuyến đi của ta về đây không phải là không được phần thưởng xứng đáng.

Rồi Ngài suy nghĩ: Những vần kệ này không phải chỉ là lời của một đệ tử hay một Thánh Nhân, cũng không phải là tác phẩm của một thi sĩ, mà đó chính là do một Đấng Toàn Tri Kiến nói ra. Ta không biết chúng đáng giá ra sao.

Dù ta có dâng toàn Thế Giới trải dài lên tận Cõi Trời Phạm Thiên, sau khi chất đầy cả Thế Giới ấy với bảy báu vật, ta cũng không thể đền đáp xứng đáng những vần kệ này. Chắc chắn ta có thể trao Vương quyền cho vị ấy tại Kinh Thành Indapatta rộng bảy dặm trong đất nước Kuru trải dài hơn ba trăm dặm này. Dĩ nhiên số phần vị ấy xứng đáng làm Vua.

Nhưng khi nhìn ông với khả năng tiên đoán tương lai của một người theo hình dáng bề ngoài, Ngài không thấy các dấu hiệu như thế. Rồi Ngài lại nghĩ đến ông với chức vụ đại tướng quân hay những chức vụ tương tự, nhưng cũng không thấy ông có tướng cầm đầu dù chỉ một ngôi làng nhỏ.

Kế đó, khi xem xét trường hợp hưởng thọ tài sản, bắt đầu từ mười triệu đồng, Ngài thấy vị ấy đáng được hưởng bốn ngàn đồng, và nghĩ cách làm vinh dự vị ấy với chỉ số tiền này thôi, Ngài ban tặng vị ấy bốn cái túi, một túi đựng một ngàn đồng tiền và bảo: Thưa Tôn Sư, khi Ngài dạy các Vương Tử khác những vần kệ này, Ngài nhận được bao nhiêu?

Tâu Ðại Vương, mỗi vần một trăm đồng vậy chúng chỉ đáng giá một trăm thôi.

Bậc Ðại Sĩ bảo: Thưa Tôn Sư, Ngài không biết tính chất vô giá của món hàng mà Ngài đem bán đâu. Từ nay phải xem là chúng đáng giá một ngàn đồng tiền.

Nói vậy xong, Ngài ngâm kệ này:

Các kệ này không chỉ bốn trăm,

Ðúng hơn, phải nói giá hàng ngàn,

Bốn ngàn đây, Ðạo Sư, cầm lấy,

Ðem chúng đi ngay, hãy vội vàng.

Sau đó Ngài đưa vị ấy đến một cỗ xe êm ái và ra lệnh cho quan hầu: Hãy đưa vị Bà La Môn này về nhà an toàn. Rồi Ngài bảo ông đi về.

Lúc này có tiếng tung hô tán thán nổi lên cùng tiếng kêu lớn: Hoan hô! Hoan hô! Ðại Vương Sutasoma đã tôn vinh các vần kệ này rất trọng thể, khi nghĩ rằng mỗi vần kệ đáng giá một ngàn đồng tiền mà trước kia chỉ đáng giá một trăm.

Song thân của Vua nghe tiếng ồn, hỏi chuyện gì, và khi nghe sự thật của việc ấy, do lòng tham lam, hai vị nổi giận với bậc Ðại Sĩ. Còn Ngài, sau khi cho vị Bà La Môn ra về, liền đến thăm song thân và đảnh lễ hai vị.

Sau đó, Phụ Vương bảo: Này Vương nhi, con đã thoát khỏi tay của kẻ được xem là tướp cướp hung bạo.

Rồi thay vì lộ vẻ vui mừng khi thấy Ngài, do lòng tham tiền, Vua cha hỏi: Có thật chúng nói con ban bốn ngàn đồng tiền vì nghe bốn vần kệ chăng?

Khi nghe Ngài thú nhận là đúng, Vua cha ngâm kệ này:

Kệ thường mỗi khúc tám mươi đồng,

Hoặc đến một trăm, giá tận cùng,

Song hỡi Soma, nên tự chủ,

Một ngàn là giá kệ chưa từng!

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ muốn thúc giục Vua cha nhìn sự vật theo cách khác, liền nói: Tâu Phụ Vương, chính là con không muốn tăng thêm tài sản, mà tăng thêm kiến thức thôi.

Và Ngài ngâm các kệ này:

Con mong Thánh kiến cứ tăng dần,

Bầu bạn thiết thân với Thánh Nhân,

Chẳng có sông nào đầy biển cả,

Thiện ngôn con học mãi không cùng.

Như lửa khát khao réo củi rơm,

Biển đòi sông, lạch đổ nhiều hơn,

Hiền Nhân cũng vậy, tâu Hoàng Thượng,

Khao khát nghe lời nói thiện chân.

Từ miệng nô tỳ, nếu được nghe

Tối cao ý nghĩa kệ tràn trề,

Lời kia con nhận đầy cung kính,

Ðạo lý thiện chân thỏa chẳng hề.

Sau khi nói vậy xong, Ngài bảo: Xin Phụ Vương đừng chỉ vì tiền mà trách móc con. Con đã về đây, sau khi thề nguyền rằng con sẽ trở lại đó khi đã nghe pháp xong. Nay con sẽ trở lại với quái nhân kia, xin Phụ Vương nhận lấy vương quyền.

Ngài trao chủ quyền cho Phụ Vương và ngâm kệ:

Ðất nước của cha lắm bạc vàng,

Cân đai, quốc phục, lạc vô ngàn,

Sao còn khiển trách khi con bỏ

Dục lạc, chết vào tay sát nhân?

Lúc này tim Vua cha nóng rực lên và Ngài bảo: Này, Vương nhi Sutasoma yêu quý, con nói gì thế?

Cha sẽ đi cùng tất cả bốn đạo quân và sẽ bắt được kẻ cướp ấy.

Rồi Ngài ngâm kệ:

Dũng sĩ đến đây bảo vệ ta!

Kẻ thì cỡi tượng, kẻ lên xa,

Bộ binh, kỵ mã đầy cung tiễn,

Thống lãnh đạo quân, giết địch nhà!

Lúc ấy Phụ Vương mẫu hậu Ngài, mắt đẫm lệ, năn nỉ Ngài: Này Vương nhi, chớ đi, con không thể đi được.

Rồi mười sáu ngàn cung nữ ca múa cùng đám cận thần than khóc: Tâu Ðại Vương, sao Ðại Vương nở đến đó, bỏ chúng thần bơ vơ?

Và khắp Kinh Thành, không ai giữ được niềm xúc động, họ bảo nhau: Người ta nói Ngài đã trở về đây sau khi đã hứa lời với kẻ ăn thịt người. Giờ đây Ngài đã nghe bốn vần kệ, mỗi vần đáng giá một trăm đồng, và đã bày tỏ lòng cung kính trọng thể đối với vị Pháp Sư, cùng từ giã song thân, Ngài sẽ quay lại lần nữa với kẻ ăn thịt người ấy. Rồi cả Kinh Thành náo động dữ dội.

Còn Ngài khi nghe cha mẹ bảo thế, liền ngâm kệ này:

Hành động cừu nhân ăn thịt người

Bắt con, rồi thả, thật cao vời,

Khắc ghi thuở trước tình bằng hữu,

Ðã hứa, làm sao con nuốt lời?

Ngài lại an ủi song thân: Phụ Vương và Mẫu Hậu yêu quý, xin đứng lo âu vì con. Con đã làm một việc công đức, nên việc điều phục ngũ dục tham không phải là vấn đề khó khăn gì đâu. Vừa từ giã song thân, Ngài vừa khuyến giáo quần chúng và ra đi.

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

Lời khéo khuyên, từ biệt lão thân,

Chân Thành nhắn nhủ cả quân, dân,

Giữ lời thệ ước, không lừa dối,

Vội trở về bên kẻ sát nhân.

Lúc ấy kẻ ăn thịt người suy nghĩ: Nếu hiền hữu Sutasoma của ta muốn trở về, thì cứ để bạn trở về, không thể khác được, và mặc vị thần cây muốn làm gì tùy ý, còn ta sẽ giết các Vương Tử này và dâng tế lễ tế đàn bằng thịt của chúng với năm món ngon ngọt nữa.

Thế rồi kẻ ấy chất đống củi hỏa thiêu và châm lửa, nghĩ rằng phải đợi cho đến khi than nóng đỏ lên. Trong lúc y ngồi mài cái xiên thịt thì Sutasoma đến.

Vừa thấy Ngài, kẻ ăn thịt người vui mừng trong lòng, liền hỏi: Này hiền hữu, bạn đã đi làm được những gì bạn muốn rồi chứ?

Bậc Ðại Sĩ đáp: Thưa vâng, này Ðại Vương, ta đã nghe những vầng kệ do Đức Phật Kassapa dạy vị Bà La Môn kia, ta đã tỏ lòng tôn kính trọng thể đối với vị Pháp Sư và vì thế ta đã trở lại sau khi làm xong việc ta cần làm.

Ðể chứng minh điều này, Ngài ngâm kệ:

Trước một La Môn đã hứa lời,

Khi ta trị nước với quyền oai,

Nay ta đã trọn lời thề ước,

Danh dự cứu xong, trở lại rồi.

Vậy hãy giết ta và tế lễ

Dâng Thần cây gỗ của nhà Ngài,

Hay là thỏa mãn lòng tham muốn

Ðộc ác bạo hung với thịt người!

Nghe lời vậy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: Vua này không sợ, vị ấy nói lên với lòng đã xua tan mọi nỗi kinh hoàng chết chóc. Ta muốn biết uy lực này phát xuất từ đâu. Không thể có gì khác được.

Vị ấy nói: Ta đã nghe các vần kệ mà Đức Phật Kassapa dạy bảo. Chắc hẳn uy lực siêu phàm này phát xuất từ đây. Ta sẽ bảo vị ấy ngâm kệ này cho ta nghe và do đó ta cũng sẽ thoát bất cứ nỗi sợ hãi nào.

Khi đã quyết định như vậy xong, y ngâm kệ này:

Dù ta trì hoãn một hai ngày,

Lửa vẫn còn làm khói tỏa bay,

Chẳng mất quyền ăn mồi thịt ấy,

Thịt quay than nóng thật ngon thay!

Các vần kệ giá trăm đồng chẵn

Ngài hãy mau lên, đọc kệ ngay!

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: Kẻ ăn thịt người này là kẻ phạm tội ác. Ta sẽ khiển trách y đôi lời và làm y biết ô nhục vì những lời của ta.

Ngài liền bảo:

 Kẻ ăn đồng loại, bạo tàn thay,

Thèm thịt, đã rơi khỏi chiếc ngai,

Vần kệ dạy cho ta chánh lý,

Chánh, Tà phải kết hợp sau đây?

 Với kẻ cướp hung ác bạo tàn,

Bàn tay đã nhúng máu đầy tràn,

Lợi gì Thánh kiến này đem đến,

Phát xuất từ đâu lẽ chánh chân

Cho dù được nghe nói các lời này, kẻ ăn thịt người cũng không tức giận.

Vì sao vậy?

Ðó là do uy lực từ tâm của bậc Ðại Sĩ.

Vì thế y nói: Này hiền hữu Sutasoma, chỉ một mình ta là bất chánh thôi sao?

Và y ngâm kệ:

Kẻ nọ đi săn bắt thú rừng

Ðể làm thành món thịt thơm lừng,

Và người kia giết người đồng loại

Lấy thịt bà con để nấu ăn,

Khi chết, cả hai đồng tội lỗi,

Sao riêng ta bị trách cùng hung?

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ ngâm kệ này để phá tan tà kiến ấy:

Trong ngũ thú, loài có móng, răng,

Khôn ngoan, Vương Tử cứ dùng ăn,

Còn Ngài ăn thịt đà kiêng kỵ,

Này Ðại Vương ôi, thật bạo hung!

Khi nghe lời khiển trách trên, y thấy không còn đường nào thoát được cả, liền cố tìm cánh che dấu tội lỗi của mình và ngâm kệ:

Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người,

Về cung, đầy mộng ước xinh tươi,

Sao còn nộp mạng cho cừu địch,

Ngài chắc tinh thông đạo lý Trời?

Lúc ấy, bậc Ðại Sĩ đáp:

Này hiền hữu, một người như ta chắc hẳn phải thông thạo kiến thức truyền thống Khattiya Sát Đế Lỵ: Võ tướng, quý tộc. Ta hiểu rõ lắm chứ, nhưng ta không hướng dẫn hành động của ta theo đó.

Và Ngài ngâm kệ:

 Ai thông đạo Khat Ti Ya vậy,

Ðều xuống ngục sâu sống đọa đày,

Ta vốn ghét căm truyền thống ấy,

Theo lời đã hứa, trở về đây.

Hãy làm tế lễ và ăn thịt

Ta trọn, Ðại Vương khủng khiếp này.

Kẻ ăn thịt người hỏi:

 Ðất rộng, cung đình, bò, ngựa, trâu,

Hương thơm, áo đẹp, lắm nàng hầu,

Ðại Vương đầy đủ bao điều ấy,

Chánh pháp Ngài tìm hạnh phúc đâu?

Bồ Tát đáp lại:

Mọi lạc thú mà Cõi thế gian

Tặng ta, chẳng có thú nào hơn

Niềm vui chánh pháp ta tìm thấy:

Ẩn Sĩ, La Môn vẫn trú an

Trong đạo chánh chân và giải thoát

Tử sinh, bờ nọ đến an toàn.

Như vậy bậc Ðại Sĩ đã thuyết giảng cho kẻ ấy về hạnh phúc trong chánh pháp.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần