Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Mốt - Phẩm Một - Phẩm Tám Mươi Bài Kệ Số Một - Chuyện Tiểu Thiên Nga Tiền Thân Cullahamsa - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT
PHẨM MỘT
PHẨM TÁM MƯƠI BÀI KỆ SỐ MỘT
CHUYỆN TIỂU THIÊN NGA
TIỀN THÂN CULLAHAMSA
PHẦN BA
Như vậy, gã đứng đó tán dương những đức hạnh của Sumukha. Sau đó Vua Sakula tặng ngỗng chúa một bảo tọa cao sang và Sumukha một kim đôn quý giá.
Khi đôi chim đã an tọa, Vua mới dùng bắp rang, mật ong, mật mía và các món tương tự đựng trong các chén dĩa bằng vàng. Khi đôi chim đã ăn xong, Vua chấp hai tay thỉnh cầu bậc Đại Sĩ thuyết pháp rồi ngồi xuống một kim đôn nữa. Theo lời thỉnh cầu ấy, chúa Thiên nga đàm đạo đầy hứng thú với Vua.
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ mọi việc:
Giờ đây nhìn thấy đấng Quân Vương
An tọa kim đôn sáng rỡ ràng,
Chim ngỗng dùng âm thanh dịu ngọt
Làm êm tai chúa tể trần gian.
Thiên nga:
Đại Vương, ngọc thể có khang an,
Vạn sự Đại Vương thảy vẹn toàn,
Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
Được Ngài cai trị thật công bằng?
Quân Vương:
Nga Vương, trẫm vẫn được khang an,
Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
Thiên nga:
Ngài có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì Chánh nghĩa và danh chúa công?
Quân Vương:
Trẫm có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.
Thiên nga:
Phải chăng Hoàng Hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi Thánh ý minh quân?
Quân Vương:
Trẫm nay có Chánh Hậu chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi ý trẫm cầu mong.
Khi Bồ Tát đã chấm dứt những lời chào hỏi thân hữu xong, Vua lại đàm đạo cùng Ngài:
Quân Vương:
Khi vận rủi kia đưa đẩy Ngài,
Đến cừu nhân tối hiểm trên đời,
Khi Ngài gặp phải tay người ấy,
Ngài đã chịu bao thống khổ rồi?
Gã kia có chạy, gậy trong tay
Đánh đập các Ngài, nói trẫm hay?
Với những con người gian ác ấy
Trẫm thường nghe nói cách như vậy.
Thiên nga:
Ta không hề gặp bước gian nan
Trong lúc lòng ta vẫn nhớ ơn
Kẻ ấy chẳng bao giờ đối xử
Với ta như những bọn cừu nhân.
Người bẫy chim run rẩy, ngạc nhiên,
Cầu mong hỏi chuyện của đôi chim,
Và Sư mục, tướng quân khôn nhất,
Đã trả lời ngay kẻ ấy liền.
Nghe những lời chim tuớng giải bày
Người kia liền đạt phước ân ngay,
Hân hoan giải thoát ta từ bẫy,
Ra lệnh đôi ta cất cánh bay.
Tâu Đại Vương, Sư Mục ước mong
Đến đây và yết kiến long nhan,
Nghĩ rằng người bẫy chim thân hữu
Sẽ kiếm ra vô số bạc vàng.
Quân Vương:
Cung nghênh các vị, đúng hoàn toàn,
Trẫm thật hân hoan gặp bạn vàng,
Hiền hữu bẫy chim rồi sẽ nhận
Thỏa lòng mọi tặng vật trần gian.
Nói vậy xong, Vua nhìn thẳng một vị cận thần và khi vị ấy hỏi: Tâu Đại Vương, xin cho biết Thánh ý.
Vua đáp: Khanh hãy đưa người bẫy chim này đi tỉa gọn râu tóc và sau khi gã được tắm rửa, xoa dầu thơm, hãy cho gã phục sức xiêm y lộng lẫy và đưa gã lại đây. Khi việc này đã xong và người bẫy chim được dẫn đến, Vua ban ân cho gã một ngôi làng hằng năm sinh lợi một trăm ngàn đồng tiền và thêm một ngôi nhà đứng ở vị trí giáp hai mặt đường, một cỗ xe lộng lẫy và cả kho vàng ròng.
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
Quân Vương rộng lượng đã truyền ban
Người bẫy chim vô số bạc vàng,
Sau đó hồng nga cất tiếng nói
Âm thanh mê mẩn cả tâm can.
Sau đó bậc Đại Sĩ thuyết pháp cho Vua, và khi nghe Ngài giảng giải, Vua sinh tâm hoan hỷ, mong muốn bày tỏ dấu hiệu kính trọng đối với vị Pháp Sư, Vua liền tặng Ngài chiếc lọng trắng, vừa dâng lên Ngài cả Quốc Độ vừa ngâm các vần kệ này:
Những gì trẫm có, đúng công bằng
Những vật trẫm đòi hỏi chánh chân,
Sẽ chuyển qua quyền Ngài thọ hưởng,
Nếu Ngài nêu nguyện ước trong tâm.
Dẫu Ngài đem bố thí ban ân,
Hoặc sử dụng, hay muốn hưởng phần,
Trẫm nhượng quyền hành cùng tất cả,
Và giao Ngài cả chiếc ngai vàng.
Bậc Đại Sĩ liền trao trả chiếc lọng trắng mà Vua đã tặng Ngài.
Rồi Vua suy nghĩ: Ta đã nghe pháp do vị chúa hồng nga thuyết giảng, song vị tướng quân Sumukha này được gã bẫy chim tán tụng nhiệt liệt là nói năng dịu ngọt như mật rót vào tai, vậy ta cũng muốn nghe chim ấy thuyết pháp.
Thế là Vua ngâm vần kệ khác để đàm đạo với chim ấy:
Trí hiền Sư Mục thật tinh thông,
Ví thử nói ra tự nguyện lòng
Chỉ một hai lời thôi cũng đủ
Trẫm đây hạnh phúc bội muôn phần.
Sau đó Sumukha đáp:
Xin tâu Chúa Thượng, trước minh quân,
Đúng phép, tôi không dám nói năng
Dù chỉ một đôi lời nhỏ mọn,
Khác nào Vương Tử của Long Thần.
Vì chúa hồng nga hiện diện đây,
Và Ngài Đại Đế tối cao vậy,
Có quyền đòi hỏi đầy chân chánh
Niềm kính trọng tôi phải tỏ bày.
Thần tôi hèn mọn, tấu Quân Vương,
Nên chẳng dám can thiệp luận bàn,
Khi nhị Đại Vương đang nghị sự
Bao điều quan trọng giữa triều đường.
Vua nghe chim ấy nói, lòng đầy hoan hỷ phán bảo: Người bẫy chim nhiệt liệt ca tụng tướng quân, chắc chắn không thể có được ai khác như khanh cả, quả thật khanh là vị thuyết pháp êm dịu làm sao!
Vua ngâm các vần kệ này:
Người bẫy chim ca tụng nhiệt tình
Chim này trí tuệ, tuyệt thông minh,
Tinh khôn như vậy đâu tìm thấy
Ở kẻ trí chưa được học hành.
Trong đám chim cao quý trẫm xem
Chim này vô địch giữa đàn em,
Tối cao đức tính chim đầy đủ
Đệ nhất hữu tình vượt hẳn lên.
Hình dáng thanh cao, giọng ngọt ngào
Khiến lòng mê mẩn biết dường nào,
Ước mong của trẫm là hai vị
Ở mãi bên mình thỏa ước.
Sau đó bậc Đại Sĩ ngâm kệ ca tụng Vua:
Ngài đối đãi đây với chúng thần
Như người đối với đại thân bằng,
Này đây Chúa Thượng vừa ban phát
Hèn mọn đội chim hưởng phước ân.
Song đàn chim quyến thuộc kêu than
Xa vắng lâu ngày đã bặt tăm,
Và có nhiều chim đầy khổ não
Vì không còn thấy bóng Nga Vương.
Vậy để xua tan nỗi khổ này,
Đại Vương, xin thả chúng thần ngay,
Cúi xin Chúa Thượng nay cho phép
Gặp lại thân bằng, cất cánh bay.
Hôm nay hạnh ngộ đấng Quân Vương,
Thần thấy tâm hoan hỷ ngập tràn,
Thần chắc từ nay toàn bạn hữu
Chẳng còn duyên cớ để kinh hoàng.
Khi Ngài nói vậy xong, Vua mới chịu để hai vị giã từ.
Bậc Đại Sĩ lại thuyết giảng với Vua về nỗi khổ đau theo liền ngũ ác dục và niềm hạnh phúc đi theo công đức, rồi Ngài khích lệ Vua:
Xin Đại Vương giữ giới luật và trị dân chân chánh cùng thu phục nhân tâm với tứ nhiếp pháp bốn pháp hòa hợp:
Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự
Sau đó Ngài khởi hành về núi Cittakùta.
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
Như vậy với chúa tể loài người,
Chim chúa Dhata đã đáp lời,
Sau đó tìm thân bằng quyến thuộc,
Tung đôi cánh mạnh nhất lên Trời.
Nhìn chủ tướng chim được vạn an
Trở về từ cõi chết nhân gian,
Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
Chào đón chúa chim lại họp đàn.
Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể
Hân hoan vì chúa được an thân.
Trong khi hộ tống chim chúa, bầy Thiên Nga hỏi Ngài: Tâu Chúa Thượng, làm thế nào Ngài thoát nạn?
Bậc Đại Sĩ thuật cho chúng nghe Ngài được giải thoát nhờ Sumukha giúp đỡ, và nói về hành động của Vua Sakula cùng người bẫy chim.
Nghe vậy cả bầy thiên nga hân hoan ca ngợi tất cả các vị: Vạn tuế Tướng quân Sumukha của đàn thiên nga, và Đại Vương Sakula cùng chú bẫy chim. Cầu mong các vị an lạc hạnh phúc lâu dài.
Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề:
Ai có từ tâm ắt đạt thành
Việc gì các vị ấy thi hành,
Như thiên nga trở về bằng hữu
Lần nữa đôi chim được trọn lành.
Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt pháp thoại và bảo: Này các Tỳ Kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Ànanda cũng đã hy sinh tính mạng vì ta.
Và Ngài nhận diện tiền thân: Thời ấy, Channa Xa Nặc là người bẫy chim, Sàriputta Xá Lợi Phất là nhà Vua, Ànanda A Nan là Sumukha, các đệ tử Đức Phật là chín mươi ngàn thiên nga, và ta chính là chúa thiên nga.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba