Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Mười Một - Phẩm Mười một Bài Kệ - Chuyện Trí Giả Suppàraka Tiền Thân Suppàraka

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP MƯỜI

CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT  

CHƯƠNG MƯỜI MỘT  

PHẨM MƯỜI MỘT BÀI KỆ  

CHUYỆN TRÍ GIẢ SUPPÀRAKA

TIỀN THÂN SUPPÀRAKA  

Những người kia mũi nhọn như dao. Chuyện này bậc Ðại Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về sự viên mãn của trí tuệ tối thắng.

Một ngày nọ, chúng ta nghe kể rằng về buổi tối, các Tỳ Kheo đang đợi Đức Như Lai đến thuyết pháp cho Tăng Chúng, và trong lúc ngồi tại chánh pháp đường, các vị nói với nhau: Này Tỳ Kheo, quả thật bậc Ðạo Sư có trí tuệ vĩ đại! Trí tuệ quảng bác!

Trí tuệ mẫn tiệp, trí tuệ linh hoạt! Trí tuệ tinh xảo! Trí tuệ uyên thâm! Trí tuệ Ngài đáp ứng đúng nơi đúng lúc!

Trí bao la như Thế Giới, như đại dương vô tận, như bầu Trời trải rộng mênh mông: Khắp cả xứ Diêm Phù Đề không một bậc Trí nhân nào có thể sánh bằng Đấng Thập Lực, như một đợt sóng nổi lên trên đại dương không thể chạm đến bờ được, hoặc nếu chạm vào bờ, sóng kia sẽ vỡ tan.

Cũng vậy, không một người nào có thể đạt đến trí tuệ bằng đấng Thập Lực, hoặc nếu kẻ ấy đến chân bậc Ðạo Sư thì sẽ vỡ tan. Bằng những lời ấy Tăng Chúng tán thán Trí tuệ tối thắng của đấng Thập Lục.

Bậc Ðạo Sư bước vào, và hỏi: Này các Tỳ Kheo, các ông đang nói gì trong khi ngồi đây?

Tăng Chúng thưa với Ngài.

Ngài bảo: Không phải chỉ bây giờ Như Lai mới đầy đủ trí tuệ. Ngày xưa ngay khi trí tuệ chưa viên thành Chánh Giác, Ngài cũng đã sáng suốt thông minh. Mặc dù mù lòa, Ngài cũng biết qua các dấu hiệu của đại dương là ở trong đại dương có chôn giấu các loại ngọc này nọ.

Sau đó Ngài kể một chuyện quá khứ. Một thuở nọ một vị Vua mệnh danh Bharu trị vì trong Quốc Độ Bharu. Có một thị trấn bên hải cảng được đặt tên là Bharukacha hay là Ðầm Bharu. Vào thời ấy, Bồ Tát sinh ra trong gia đình một thuyền trưởng ở tại đó, Ngài rất khả ái, với làn da màu vàng nâu. Cha mẹ đặt tên Ngài là Suppàraka Kumàra.

Ngài lớn lên, xuất sắc khác thường, và ngay khi chỉ mới được mười sáu tuổi, Ngài đã hoàn toàn tinh thông nghệ thuật hàng hải. Sau đó khi thân phụ mất, Ngài cầm đầu đám thủy thủ và miệt mài với nghề hàng hải, Ngài thật thông minh sáng suốt, khi Ngài lên tàu rồi thì không hề có chiếc tàu nào đến làm hại được.

Theo thời gian, Ngài bị thương vì nước mặn nên đôi mắt Ngài mất cả thị giác. Sau sự kiện ấy, dù Ngài là thuyền trưởng của đám thủy thủ, Ngài không còn đeo đuổi sự nghiệp thương mãi nữa, mà quyết định về phục vụ Vua, Ngài đến yết kiến Vua với mục đích ấy, và Vua phong cho Ngài chức hội thẩm đánh giá các báu vật. Từ đó Ngài định giá trị các voi báu, ngọc báu và châu báu.

Một hôm, một con voi được đem trình lên Vua, da voi màu đá đen, nên có thể được làm Vương Tượng. Vua liếc nhìn voi rồi ra lệnh đem nó đi đến trình diện với bậc Trí Giả. Quân hầu liền dẫn con vật đến gặp Ngài.

Ngài sờ tay lên khắp mình voi và bảo: Con voi này không xứng đáng làm quốc tượng. Nó có đặc tính của một con vật bị dị tật ở phía sau. Khi voi mẹ sinh ra nó, đã không đủ sức mang nó lên vai, nên để nó ngồi xuống đất, vì vậy nó bị tật nguyền ở chân sau. Họ chất vấn những người đem voi đến, và bọn ấy trả lời rằng bậc Trí Giả đã nói đúng sự thật. Khi Vua nghe nói chuyện kia, lòng rất hoan hỷ và ra lệnh ban cho bậc Trí Giả tám đồng tiền vàng.

Một ngày khác, người ta đem một con ngựa dâng lên để làm Vương mã. Con vật này cũng được dẫn đến bậc Trí Giả.

Ngài lấy tay sờ khắp mình ngựa rồi nói: Con vật này không thích hợp để làm Vương mã cho Đức Vua ngự. Vào ngày nó sinh ra, ngựa mẹ chết đi, nên do thiếu sữa mẹ, nó không lớn lên đầy đủ. Lời nói này của Ngài cũng đúng sự thật nữa. Khi nghe được chuyện ấy, Vua rất đẹp ý, phán bảo đem tặng Ngài tám đồng tiền nữa.

Vào một ngày khác, một chiếc xe được đem đến để làm Vương xa. Vua cũng đưa xe này đến Ngài.

Ngài lấy tay rờ khắp xe và bảo: Chiếc xe này được làm bằng gỗ rỗng, nên không thích hợp với Đức Vua. Lời nói này của Ngài cũng đúng như các lời khác. Vua lại một phen hài lòng khi nghe chuyện này, nên ban thêm cho Ngài tám đồng nữa. Một lần nữa có người đem dâng Vua một tấm thảm quý có giá trị lớn, Vua liền đưa nó đến Ngài như lần trước.

Ngài sờ khắp tấm thảm, rồi bảo: Ở đây có một chỗ mà con chuột đã cắn một lỗ. Họ xem kỹ và thấy chỗ đó, liền tâu với Vua. Vua đẹp ý lại bảo cho Ngài tám đồng tiền nữa.

Lúc bấy giờ bậc Trí Giả mới suy nghĩ: Chỉ được có tám đồng vàng để xem những việc kỳ diệu như thế đấy. Ðây là món tiền tặng cho thợ hớt tóc, chắc hẳn Vua này là cậu bé thường hớt tóc.

Tại sao ta phải phụng sự một vị Vua như thế chứ?

Ta sẽ trở về nhà riêng của mình. Thế là Ngài trở về hải cảng Bharukaccha và sống tại đó. Lúc ấy có vài thương nhân chuẩn bị một chiếc thuyền và đang đi tìm một thuyền trưởng.

Họ suy nghĩ: Ngài Suppàraka thông minh kia là một bậc Trí Giả tài ba, có Ngài trên tàu thì không con tàu nào đến hại nữa. Dù Ngài mù lòa, bậc Trí Giả Suppàraka vẫn là người tuyệt hảo. Vì thế họ đi đến Ngài và mời Ngài làm thuyền trưởng.

Này các hiền hữu Ngài đáp ta mù rồi, làm sao lái thuyền các bạn được?

Thưa Tôn giả, quả Ngài mù thật đấy các thương nhân bảo song Ngài là người tài giỏi nhất. Vị họ cứ năn nỉ Ngài mãi không ngớt nên cuối cùng Ngài chấp thuận. Như các bạn đã nói với ta Ngài bảo thì ta sẽ làm thuyền trưởng của các bạn. Sau đó, Ngài bước lên chiếc thuyền của họ.

Họ lái thuyền ra giữa đại dương. Suốt bảy ngày liền, thuyền đi không gặp rủi ro nào, rồi một ngọn gió trái mùa nổi lên. Thuyền trôi dạt bốn tháng trên vùng đại dương hoang dã, cho đến lúc vào được một nơi gọi là Biển Khuramàla Bãi Dao nhọn hoắc. Tại đây loài cá có thân như người với mõm nhọn hoắc như lưỡi dao, nhào lộn dưới nước.

Các thương nhân quan sát loài cá này, vừa hỏi bậc Ðại Sĩ biển này tên gì, vừa ngâm vần kệ đầu:

Ðám người kia mũi nhọn như dao,

Vừa nhảy lên cao, lại lộn nhào,

Hãy nói, Suppà, cho chúng bạn,

Biển này được biết với tên nào?

Bậc Ðại Sĩ nghe câu nói này, liền ôn lại trong trí các kiến thức thủy thủ của Ngài, rồi đáp qua vần kệ thứ hai:

Này các thương nhân cảng Bharka,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Ðây là biển cá khu ra đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Lúc bấy giờ đại dương này có nhiều kim cương. Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ rằng nếu Ngài bảo chúng bạnđây là biển kim cương, họ sẽ làm chìm tàu do lòng tham hốt nhiều kim cương.

Vì thế, Ngài không nói gì cả, song sau khi đưa thuyền đến, Ngài lấy một sợi dây thừng và thả lưới xuống như thể bắt cá. Với dây này, Ngài đã hốt được một mớ kim cương và dấu trong thuyền, rồi Ngài lựa những thứ ít giá trị quăng xuống biển.

Chiếc thuyền đi qua vùng biển này, đến một biển khác tên là Aggimàla Vùng Lửa cháy. Biển này tỏa ra ánh sáng như thể một ngọn lửa đang bừng cháy, như mặt Trời đúng ngọ.

Các thương nhân hỏi han Ngài qua vần kệ:

Kìa đại dương như ngọn lửa hồng,

Như vầng nhật chiếu, bạn cùng trông,

Sup pa, xin nói cho bè bạn,

Tên gọi là gì chốn đại dương?

Bậc Ðại Sĩ đáp lại họ qua vần kệ tiếp theo:

Này các thương nhân ở Bharka,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Ðây là biển cả Aggi đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ biển này chứa đầy vàng, cũng như trước, Ngài lấy lên một mớ vàng và cất lên thuyền. Qua khỏi biển này con thuyền đi đến một biển cả tên là Dadhimàla Vũng Sữa đông, óng ánh như sữa tươi hay sữa đông.

Các thương nhân lại hỏi tên của biển qua vần kệ:

Kìa biển trắng phau giống sữa tươi,

Trắng như nhìn vũng sữa đông rồi,

Sup pà, xin nói cùng bè bạn,

Tên gọi là gì của biển khơi?

Bậc Ðại Sĩ đáp lại chúng bằng câu kệ tiếp theo:

Này các thương nhân ở Bhar ka,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Ðây là biển cả Dadhi đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Trong biển này có rất nhiều bạc. Ngài lấy bạc theo cách như trước, rồi cất lên tàu. Chiếc thuyền đi qua biển này và đến một đại dương tên là Nilavannakusamàla thảm cỏ Kusa, có hình dáng một thảm cỏ Kusa đen nhánh cỏ cát tường hay một cánh đồng lúa.

Các thương nhân lại hỏi tên biển qua vần kệ:

Kìa, biển xanh như cỏ cát tường,

Tưởng như nhìn đám lúa nàng hương,

Suppà, hãy nói cho bè bạn,

Tên gọi là gì của đại dương?

Ngài đáp lời qua vần kệ tiếp theo:

Này các thương nhân xứ Bharka,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Ðại dương đây chính KuSa đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ trong biển này có rất nhiều ngọc bích quý. Cũng như trước, Ngài lấy một mớ ngọc và cất trên thuyền. Qua khỏi biển này, con thuyền đi đến một biển tên gọi là Nalamàla Bãi Lau sậy, có hình dáng một bãi lau sậy hay một rừng tre.

Các thương nhân hỏi tên biển qua vần kệ:

Kìa đại dương như một khóm lau,

Khác nào ta thấy rặng tre đâu,

Sup pà, hãy nói cho bè bạn,

Biển cả này tên gọi thế nào?

Bậc Ðại Sĩ đáp lại qua vần kệ sau:

Này các thương nhân xứ Bharka,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Biển này tên gọi Na La đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Bấy giờ biển này đầy san hô với màu khóm tre, Ngài lại hốt một mớ đá quý này và cất lên tàu. Sau khi đi qua biển Nalamàla, các thương nhân đến một biển có tên là Valabhàmukha lòng chảo. Ở đây nước rút đi và dâng lên một phía, và như vậy nước rút đi ở mọi phía và dâng lên trên các vách đá thẳng đứng để lại một vùng như thể cái hố sâu.

Một đợt sóng dâng tràn lên một phía, khác nào một bức tường: Tai lại nghe một tiếng gầm thét khủng khiếp, tưởng chừng làm thủng màng tai hoặc vỡ cả tim ra.

Khi thấy cảnh này, các thương nhân kinh hoảng và hỏi tên biển qua vần kệ:

Này nghe tiếng thét thật kinh hoàng,

Từ biển cả kia thật dị thường!

Hố thẳm, hãy nhìn nhiều đợt sóng

Dâng lên dốc đứng tựa sườn non,

Sup pà, hãy nói cho bè bạn,

Ðây gọi tên gì của đại dương?

Bồ Tát đáp lại qua vần kệ:

Này các thương nhân xứ Bharka,

Ði tìm vàng bạc bán đường xa,

Va la bhà đại dương này đó,

Thuyền của các người đã lạc qua.

Ngài nói tiếp: Này các hiền hữu, một khi thuyền vào trong biển Valabhàmukkhi này thì không thể nào trở về được. Nếu thuyền này vào đó, nó sẽ chìm và tan nát.

Bây giờ có cả bảy trăm mạng người trên thuyền này, họ đều sợ chết. Nên họ đồng thanh thốt lên một tiếng kêu vô cùng thảm thiết, chẳng khác nào tiếng kêu la của những kẻ đang bị đốt cháy trong chốn địa ngục tận cùng Vô gián địa ngục.

Bậc Ðại Sĩ nghĩ thầm: Trừ ta ra, không ai có thể cứu mạng họ được. Ta quyết cứu họ bằng một lời thề chân lý.

Rồi Ngài nói lớn: Này các Hiền hữu, hãy mau mau tắm cho ta bằng nước hương thơm, mặc y phục mới cho ta, dọn ra một chén nước đầy và đưa ta đứng trước con thuyền. Cả bọn vội làm như vậy.

Bậc Ðại Sĩ cầm chén nước đầy bằng cả hai tay, và đứng trước mũi thuyền, thực hiện một lời nguyện cầu chân lý trong khi ngâm vần kệ cuối cùng:

Từ khi ta nhớ rõ về thân,

Trí tuệ đầu tiên phát khởi dần,

Không một người nào ta sát hại,

Là điều ta đã biết tinh tường,

Nều lời cầu nguyện này chân chánh,

Mong ước thuyền về chốn vạn an.

Bốn tháng qua con thuyền đã du hành trong những vùng biển xa xôi nay dường như được ban cho thần lực siêu phàm, nên chỉ trong một ngày nó trở lại hải cảng Bharukaccha, vào tận trên đất liền cho đến khi dừng lại trước cửa nhà của vị thuyền trưởng kia, sau khi nhảy vọt qua một khoảng chừng một ngàn một trăm cubit 1 cubit = 45cm.

Bậc Ðại Sĩ phân phát cho đám thương nhân tất cả vàng bạc trân châu, san hô, kim cương và bảo: Số châu báu này là đủ cho các bạn rồi, vậy đừng du hành đường biển nữa. Sau đó Ngài thuyết pháp cho họ và đến khi đã làm xong các việc bố thí và các thiện sự suốt đời, Ngài đi lên cộng trú với hội chúng ở Thiên Giới.

Sau khi chấm dứt pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo: Này các Tỳ Kheo, ngày xưa Như Lai cũng rất thông thái như bây giờ vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân: Thời bấy giờ hội chúng của Đức Phật là hội chúng thương nhân và ta chính là Trí Giả Suppàraka.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần