Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Sáu - Thiên Cung Sự - Phẩm Bảy - Phẩm Sunikkhitta - Phần Chín - Lâu ðài Của Vị Thiên Tử ðeo Vòng Tai Sáng Chói Mattakundalì Vimàna
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP SÁU
THIÊN CUNG SỰ
PHẨM BẢY
SUNIKKHITTA
PHẦN CHÍN
LÂU ÐÀI
CỦA VỊ THIÊN TỬ ÐEO VÒNG TAI
SÁNG CHÓI MATTAKUNDALÌ VIMÀNA
Bấy giờ, Đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Kỳ Viên. Có một Bà La Môn sống tại đó rất giàu nhưng không có lòng tin vào đạo và không bao giờ bố thí cho ai vật gì cả, nên được đặt danh hiệu người không bao giờ bố thí.
Ông lại thường dạy bảo con trai là Mattakundalin đừng đến gần Đức Thế Tôn hay các đệ tử của Ngài. Chàng tuân lệnh. Khi chàng lâm bệnh, ông cha cũng không cung cấp thuốc thang gì cho đến khi chàng nguy kịch, các thầy thuốc được mời đến đều bảo bệnh đã vô phương cứu chữa.
Bấy giờ bậc Ðạo Sư vừa xuất định đại bi, thấy Ngài có thể cứu độ cả hai cha con, bèn đến gần nhà họ và phóng hào quang. Chàng trai rúng động toàn thân vì hoan hỷ, đảnh lễ Ngài và nằm xuống.
Ngay sau khi Đức Thế Tôn ra đi, chàng từ trần và được tái sanh vào một lâu đài mười hai dặm trong hội chúng Cõi Trời Ba Mươi Ba. Ngày hôm sau tang lễ, ông cha ra nghĩa địa vừa khóc than vừa gọi tên con.
Chàng Thiên Tử thấy ông cha, liền xuất hiện trước mặt ông như chàng Mattakundalin đang khóc với hai tay chắp lại vì đau buồn, vừa kêu:
Ôi Mặt Trăng! Ôi Mặt Trời!
Vị Bà La Môn liền hỏi:
Mang chuỗi hoa, vòng tai điểm trang,
Làn da tẩm phấn bột Chiên Đàn,
Chàng than khóc với đôi tay chắp,
Sầu khổ vì sao ở giữa rừng?
Chàng Thiên Tử đáp lại ông:
Bằng vàng đúc, sáng rực huy hoàng,
Xuất hiện ngày xưa xe của con,
Ðôi bánh xe này con chẳng thấy,
Do buồn khổ ấy, muốn lìa trần.
Vị Bà La Môn lại nói với chàng:
Ðúc bằng hồng ngọc, bạc, hay vàng,
Hãy nói cho ta biết rõ ràng,
Nam tử Bà La Môn quý mến,
Ta đi tìm cặp bánh cho chàng.
Thanh niên Bà La Môn ấy muốn hạ lòng tự cao của vị Bà La Môn đã không mua thuốc thang gì cho chàng, liền nói:
Hẳn chúng lớn bằng mặt trăng mặt trời kia.
Và chàng yêu cầu ông như sau:
Nam Tử La Môn nói với ông:
Ðôi vòng nhật nguyệt vẫn thường trông,
Xe con vàng đúc thường bừng sáng
Với cặp bánh này giữa cõi không!
Vị Bà La Môn bảo:
Chàng La Môn quả thật điên khùng,
Chàng kiếm thứ đồ chẳng thể mong,
Ta chắc rồi đây chàng sẽ chết,
Vì chàng không thể được Trời, Trăng!
Thanh niên Bà La Môn đáp: Thế ai điên khùng hơn ai, người khóc đòi vật có thể thấy được hay người khóc đòi vật không thể thấy?
Ta thường thấy lặn, mọc, Trời, Trăng,
Ðặc tính, sắc màu lúc chuyển luân,
Song kẻ mạng chung nào thấy được,
Giữa ta, ai khóc thật điên khùng?
Nghĩ rằng chàng nói có lý, vị Bà La Môn bảo chàng:
Quả chàng nói đúng, Bà La Môn,
Than khóc vậy, ta ngu xuẩn hơn,
Ta khóc than vì người đã chết,
Khác nào con trẻ khóc đòi trăng?
Và vị Bà La Môn không còn buồn khi ngâm vần kệ trên, ông lại ngâm các vần kệ tán thán chàng thanh niên Bà La Môn ấy:
Lòng ta thiêu đốt nóng bừng,
Như là sữa lạc đổ trong lửa đào,
Nay vừa được tưới nước vào,
Và đang lắng dịu biết bao khổ sầu.
Quả chàng nhổ mũi tên đau
Nỗi buồn kia đã cắm sâu vào lòng,
Xua tan mọi mối thương tâm
Của người cha đã đau buồn vì con.
Giờ đây mát lạnh, dịu lòng,
Mũi tên đã nhổ, ta không còn buồn,
Ta không còn phải khóc than,
Sau khi nghe nói, hỡi chàng La Môn!
Sau đó vị Bà La Môn hỏi chàng:
Thế chàng là ai?
và ngâm Kệ tiếp:
Có phải chàng Thiên Tử, nhạc Thần,
Sakka Thiên Chủ đại danh lừng,
Thi ân hào phóng, trang nam tử,
Con của ai, ta muốn biết chàng?
Chàng liền nói với ông về bản thân mình:
Con là nam tử của Ngài đây,
Ngài hỏa thiêu con nghĩa địa này,
Ngài đã khóc than và khổ não,
Còn con làm thiện nghiệp riêng tây,
Nay lên cộng trú cùng Thiên Chúng
Tam Thập Tam Thiên Lạc thú đầy.
Vị Bà La Môn hỏi:
Cúng dường lớn nhỏ ở trong nhà,
Ta chẳng thấy đâu, trước đến giờ,
Hoặc giữ giới hay ngày Bồ Tát,
Làm sao con đạt cõi Bămba?
Thanh niên Bà La Môn đáp:
Xưa con bệnh hoạn ở trong phòng,
Ðau đớn ngập tràn cả tấm thân,
Con thấy Phật Đà vô lậu hoặc,
Ðoạn nghi, Thiện Thệ, trí viên toàn.
Tâm con tràn ngập nỗi hân hoan,
Ðảnh lễ Như Lai với tín tâm,
Khi thiện sự con vừa thực hiện,
Con lên cộng trú Chúng Thiên Thần.
Khi chàng đang nói vậy, toàn thân vị Bà La Môn tràn đầy nhiệt tình và ông nói:
Thật là hy hữu, diệu kỳ thay,
Ðây kết quả hành động chắp tay,
Ta cũng hân hoan, tâm tín ngưỡng,
Quy y Đức Phật tự ngày nay.
Sau đó vị Thiên Tử muốn khuyên ông quy y và nhận ngũ giới, lại ngâm hai vần kệ:
Ngay tự hôm nay với tín tâm
Ngài quy y Phật, Pháp cùng Tăng,
Hành trì ngũ giới, chuyên tu tập,
Giữ trọn vẹn không có lỗi lầm.
Từ nay Ngài tránh sát muôn loài,
Không lấy vật chi chẳng tặng Ngài,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Và tri túc với vợ mình thôi.
Khi chàng Thiên Tử đã khuyên ông nhận Tam Quy và Ngũ Giới như vậy, vị Bà La Môn đồng ý với lời chàng và bảo:
Chàng muốn an lạc, Dạ Xoa,
Chàng mong hạnh phúc với ta mà,
Ta tuân lời dặn, này Thiên Tử,
Chành chính là thầy giáo của ta,
Ta sẽ quy y vào Phật, Pháp.
Và quy y hội chúng Tăng Già.
Từ nay ta tránh sát muôn loài,
Không lấy các tài vật của ai,
Không uống rượu nồng, không nói dối,
Và tri túc với vợ mình thôi.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bi - Phẩm Mười Ba - Phẩm Trồng Căn Lành
Phật Thuyết Kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Lạc - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Sáu Mươi Mốt - Pháp Hội Vô Tận ý Bồ Tát - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh Như Lai Trang Nghiêm Trí Tuệ Quang Minh Nhập Nhất Thiết Phật Cảnh Giới - Phần Sáu