Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Mười Năm - Phẩm Mười Năm Kệ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP TÁM
TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ
CHƯƠNG MƯỜI NĂM
PHẨM MƯỜI NĂM KỆ
Sanh trước Thế Tôn tại làng Donavatthu, không xa Kapilavatthu bao nhiêu, trong một gia đình Bà La Môn rất giàu có, Ngài được gọi với tên gia tộc là Kondanna.
Lớn lên, Ngài biết ba tập Vệ Đà và giỏi về đoán tướng. Khi bậc Bồ Tát mới sanh, Ngài là một trong tám vị Bà La Môn được mời đến đoán tướng.
Dầu Ngài mới học nghề, Ngài thấy các tướng của bậc Ðại Nhân trên đứa bé và nói, vị này sau sẽ thành Phật. Rồi Ngài sống, chờ đợi vị Bồ Tát xuất gia.
Khi vị Bồ Tát xuất gia, lúc hai mươi chín tuổi, Kondanna được nghe tin, liền xuất gia với bốn vị Bà La Môn đoán tướng khác, như Vappa v.v… và trong sáu năm sống ở Uruvelà, gần vị Bồ Tát, khi vị Bồ Tát đang tu khổ hạnh.
Lúc vị Bồ Tát không tu khổ hạnh nữa, các vị này chán chường bỏ đi đến Isipatana Chư Tiên đọa xứ. Rồi Đức Phật đến Isipatana, thuyết Kinh chuyển pháp luân cho họ, và Kondanna cùng hàng vạn Phạm Thiên chúng chứng được Sơ Quả.
Ðến ngày thứ năm, nhờ bài Kinh Vô Ngã Tướng, Kondanna chứng quả A La Hán. Bậc Ðạo Sư trong buổi họp Tăng Chúng ở Tinh Xá Kỳ Viên, đã xác chứng Ngài là bậc Ðệ nhất trong các hàng Tăng Chúng Tỳ Kheo xem.
Và trong một trường hợp khi Kondanna giảng về Bốn sự thật, đề cập đến ba tướng: Vô thường, khổ, vô ngã, với những phương pháp sai biệt, dựa trên Niết Bàn và giảng với sự lưu loát của Đức Phật.
Bài giảng ảnh hưởng mạnh mẽ đến Sakka Ðế Thích khiến vị này thốt lên những bài kệ:
Ta bội phần hân hoan,
Ðược nghe pháp vị lớn,
Pháp được giảng ly tham,
Hoàn toàn không chấp thủ.
Trong một trường hợp khác, thấy tâm tư của một số người còn bị chi phối nặng nề bởi tà kiến, nên Ngài nói lên bài kệ như sau:
Trên Thế Giới đất tròn,
Nhiều màu sắc hình tướng,
Làm say đắm tâm tư,
Ta nghĩ là như vậy,
Tướng tịnh rất hấp dẫn,
Liên hệ đến tham dục.
Như gió thổi tung bụi,
Ðược mây trấn áp xuống,
Các tư duy lắng dịu,
Khi thấy, với trí tuệ.
Mọi hành là vô thường
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán khổ,
Ðây con đường đến tịnh.
Mọi hành là đau khổ,
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán khổ,
Ðây con đường đến tịnh.
Mọi pháp là vô ngã,
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán khổ,
Ðây con đường đến tịnh.
Rồi Ngài nêu rõ, Ngài đã chứng được thiền quán ấy, và nói lên chánh trí, Ngài nói rằng:
Trưởng Lão Kondanna,
Giác ngộ bởi giác ngộ,
Ðã sắc bén thoát ly,
Ðoạn tận sanh và chết,
Và đời sống phạm hạnh,
Ðược hoàn toàn viên mãn.
Hoặc bộc lưu, bẫy mồi,
Hoặc cột trụ vững chắc,
Ngọn núi khó phá hoại,
Sau khi chặt phá xong,
Cột trụ và bẫy mồi,
Chặt tảng đá khó phá,
Hành thiền, vượt bờ kia,
Thoát khỏi ma trói buộc.
Tỳ Kheo hoảng hốt động,
Ði đến các bạn ác,
Chìm trong bộc lưu lớn,
Bị sóng lớn ngập tràn.
Bậc trí không hoảng hốt,
Không dao động, thận trọng,
Các căn khéo chế ngự,
Làm bạn với kẻ thiện,
Bậc trí tuệ như vậy,
Có thể đoạn đau khổ.
Một người đen, gầy mòn,
Yếu ốm, đầy đường gân,
Tiết độ trong ăn uống,
Tâm tư không ưa não.
Trong rừng núi rộng lớn,
Bị muỗi ruồi đốt cắn,
Như con voi lâm trận,
Ta chánh niệm, chịu đựng.
Ta không thích thú chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Như thợ làm việc xong.
Ta không thích thú chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Tỉnh giác, giữ chánh niệm.
Ðạo Sư, ta hầu hạ,
Lời Phật dạy, làm xong,
Gánh nặng, đặt xuống thấp,
Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
Vì mục đích xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Mục đích ấy, ta đạt,
Ta cần gì ở rừng.
Trong thời Đức Phật tại thế, Ngài sanh ở Kapilavatthu, trong một gia đình Bà La Môn. Ngài thấy được uy lực của Đức Phật khi Đức Phật thăm gia đình Ngài. Ngài khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời gian, Ngài thành bậc A La Hán.
Nay có đến ba vị Trưởng Lão Udàyin: Con một Bộ trưởng, tên là Kàludàyin, vị Bà La Môn này và Ðại Udàyin.
Khi Kinh Ví dụ con voi được thuyết giảng, trong Kinh này, con voi Sela của Vua Pasenadi được tán thán, Ngài Udàyin này cảm thấy phấn khởi khi nghĩ đến Đức Phật, nghĩ rằng các người này chỉ tán thán một con vật, còn ta sẽ tán thán các đức tánh tốt đẹp của một con voi tuyệt diệu, tức là Đức Phật.
Rồi Ngài nói lên những bài kệ như sau:
Ðức Phật, sanh làm người,
Tự điều phục thiền định,
Uy nghi Phạm Thiên Đạo,
Hoan hỷ trong tâm tịnh.
Loài người đảnh lễ Ngài,
Bậc đạt được bờ kia,
Ðối với hết thảy pháp,
Chư Thiên đảnh lễ Ngài,
Như vậy ta được nghe,
Ta là A La Hán.
Vượt qua mọi kiết sử,
Từ rừng đến Niết Bàn,
Vui thoát ly các dục,
Như vàng thoát khoáng sản.
Vị ấy thật như voi,
Tuyệt luân đẹp rực rỡ
Ðứng trên đỉnh núi cao
Dãy trường sơn Hi Mã,
Trong mọi danh Nàga,
Ngài chân danh vô thượng.
Rồi ta sẽ tán thán,
Nàga này cho người,
Nàga không làm ác,
Nên được gọi Nàga,
Từ tốn, không làm hại,
Là hai chân Nàga.
Chánh niệm và tỉnh giác,
Hai chân khác Nàga,
Voi Nàga là tín,
Ngà màu trắng là xả
Chánh niệm là cổ họng,
Trí tuệ chỉ cho đầu,
Suy tầm với cái vòi,
Chỉ cho tư duy pháp.
Hòa trú là bụng pháp,
Viễn ly ví đuôi voi.
Tu thiền, thở vô lạc,
Nội tâm, khéo định tĩnh,
Nàga đi, định tĩnh,
Nàga đứng, định tĩnh.
Nàga nằm, định tĩnh,
Nàga ngồi, định tĩnh,
Trong tất cả tình huống,
Nàga sống chế ngự
Ðây thành tích Nàga.
Ăn đồ ăn không tội,
Ðồ có tội không ăn.
Ðược đồ ăn, y phục,
Từ bỏ, không tích trữ.
Kiết sử tế hay thô,
Chặt đứt mọi trói buộc,
Chỗ nào vị ấy đi,
Bước đi, không kỳ vọng.
Như sen sanh trong nước,
Lớn lên được tăng trưởng,
Không có dính nước ướt,
Thơm ngát, rất khả ái.
Cũng vậy bậc Chánh Giác,
Sanh và trú ở đời,
Không có dính sự đời,
Như sen không dính nước.
Như đống lửa cháy đỏ,
Không củi tự tắt dần,
Trong than tro lắng dịu,
Ðược gọi lửa diệt tận.
Ví dụ, bậc trí thuyết,
Ðể nêu rõ ý nghĩa,
Ðại Nàga sẽ hiểu,
Những gì về Nàga,
Do Nàga ấy giảng.
Vô tham và vô sân,
Vô si, không lậu hoặc,
Nàga từ bỏ thân,
Sẽ diệt độ Niết Bàn,
Không còn có lậu hoặc.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Nhất Tự Chú Vương Trong Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát Chú Tạng
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Bốn Mươi Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Phật đảnh Quảng Tụ đà La Ni - Phẩm Hai - Phẩm công Năng Trì Chú
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Ba Mươi Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Khởi - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Bốn Mươi Chín - Phẩm Chăn Trâu - Phần Năm