Phật Thuyết Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm Tát đà Ba Luân - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH

TIỂU PHẨM BÁT NHÃ BA LA MẬT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

PHẨM HAI MƯƠI BẢY

PHẨM TÁT ĐÀ BA LUÂN  

TẬP MỘT  

Đức Phật bảo với Tu Bồ Đề: Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát muốn cầu bát nhã Ba la mật thì phải thực hành như Bồ Tát Tát Đà Ba Luân hiện đang hành Bồ Tát đạo ở chỗ Phật Lôi Âm Oai Vương vậy.

Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Tát Đà Ba Luân cầu bát nhã Ba la mật như thế nào?

Phật bảo Tu Bồ Đề: Này Tu Bồ Đề! Khi xưa Bồ Tát Tát Đà Ba Luân cầu bát nhã Ba la mật bằng cách: Không theo việc đời, không tiếc thân mạng, không tham cầu lợi dưỡng.

Đang tu tập trong rừng vắng vẻ, Bồ Tát bỗng nghe tiếng giữa hư không bảo: Này thiện nam! Từ đây đi về phía Đông ông sẽ được nghe bát nhã Ba la mật.

Trong khi đi, ông chớ nghĩ đến sự mệt mỏi, chớ nhớ đến sự ngủ nghỉ, chớ nghĩ đến ăn uống, chớ nhớ đến ngày đêm và chớ nghĩ đến lạnh nóng. Các việc như vậy ông chớ nên nhớ nghĩ, cũng đừng có quán sát, tư duy. Hãy xa lìa tâm dua nịnh, không nên tự cao, phải khiêm nhường với người khác.

Phải lìa bỏ tướng của tất cả chúng sinh, lìa bỏ tất cả danh dự lợi dưỡng, phải lìa bỏ năm triền cái, lìa bỏ keo kiệt và ganh ghét, cũng đừng phân biệt nội pháp và ngoại pháp. Khi đi ông chớ có nhìn ngó hai bên, chớ nghĩ trước, chớ nghĩ sau, chớ nghĩ trên, chớ nghĩ dưới, chớ nghĩ đến bốn góc và đừng làm lay động sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Vì sao vậy?

Vì nếu ông làm lay động sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì không thể hành được Phật Pháp, sẽ đi vào trong sinh tử. Người như vậy không thể đạt được bát nhã Ba la mật.

Tát Đà Ba Luân liền trả lời tiếng nói trên hư không: Con sẽ làm đúng như lời dạy của Ngài.

Vì sao vậy?

Vì tất cả chúng sinh mà con sẽ làm ánh sáng lớn để cho họ tu tập các pháp của Phật.

Trên hư không có tiếng nói: Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Ông nên tin hiểu pháp không, vô tướng, vô tác và nên lìa các tướng, lìa hữu kiến, chúng sinh kiến, nhân kiến và ngã kiến để cầu bát nhã Ba la mật.

Này thiện nam! Ông phải tránh xa ác tri thức, nên gần gũi thiện tri thức. Vì thiện tri thức có thể nói pháp không, vô tướng, vô tác, vô sinh, vô diệt.

Này thiện nam! Ông có thể thực hành như vậy không bao lâu sẽ được nghe bát nhã Ba la mật, hoặc được nghe qua từ Kinh Điển, hoặc được nghe từ Pháp Sư.

Này thiện nam! Nếu được nghe bát nhã Ba la mật thì ông nên tưởng vị ấy như đức Đại Sư, ông nên biết muốn báo đáp ân đức của Đại Sư thì ông phải nghĩ: Ta được nghe bát nhã Ba la mật ở đâu thì ở đó là thiện tri thức của ta.

Ta được nghe bát nhã Ba la mật nên ta không bị thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, không xa lìa Chư Phật, cũng không sinh vào thế giới không có Phật, được lìa các nạn. Ông cũng nên nhớ nghĩ sự lợi ích của các công đức như vậy và phải nhớ tưởng Pháp Sư này như là Đại Sư.

Này thiện nam! Ông đừng đem tâm vì tài lợi thế tục để đi theo Pháp Sư, nên lấy phép tôn trọng và cung kính pháp mà đi theo Pháp Sư.

Lại nữa, này thiện nam! Ông nên cảnh giác việc của ma. Vì có lúc ác ma tạo điều kiện cho người thuyết pháp được may mắn thọ nhận sắc, thanh, hương, vị, xúc làm vị ấy phải dùng sức phương tiện thọ nhận năm dục đó thì ông cũng đừng vì vậy mà sinh tâm bất tịnh.

Ông chỉ nên nghĩ: Ta không biết sức phương tiện, ta chỉ biết Pháp Sư này vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh gieo trồng căn lành mà thọ dụng pháp ấy, còn các Bồ Tát thì không có gì bị chướng ngại. Này thiện nam, bây giờ ông hãy quán thật tướng của các pháp.

Những gì là thật tướng của các pháp?

Phật nói tất cả các pháp là vô cấu.

Vì sao vậy?

Vì tánh của tất cả các pháp là không, tất cả các pháp là vô ngã, không có chúng sinh. Tất cả các pháp là như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như bóng, như quáng nắng.

Này thiện nam! Ông phải quán thật tướng của các pháp như vậy để đi theo Pháp Sư và không bao lâu ông sẽ biết thông thạo về bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này thiện nam! Ông phải cảnh giác việc của ma. Nếu Pháp Sư đối với người cầu bát nhã Ba la mật mà có đôi lúc tâm không vừa ý, hoặc giận hờn, hay thiếu sự quan tâm thì ông cũng đừng vì việc ấy mà ưu sầu, buồn bã. Chỉ đem tâm kính trọng pháp đi theo Pháp Sư, chứ ông đừng sinh tâm chán nản mà lìa bỏ.

Này Tu Bồ Đề! Được nghe những lời trên hư không như vậy rồi, Bồ Tát Tát Đà Ba Luân liền đi về phương Đông.

Đi không bao lâu, Bồ Tát liền suy nghĩ: Vừa rồi sao ta không hỏi tiếng nói trên hư không là từ đây đi về phương Đông gần hay xa và ta phải theo ai để nghe bát nhã Ba la mật.

Bồ Tát liền đứng lại ưu sầu khóc lóc và nghĩ: Ta đứng ở đây một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày chẳng nghĩ đến mỏi mệt, không nhớ đến ngủ nghỉ, không nhớ nghĩ đến ăn uống, không nhớ nghĩ đến ngày đêm và chẳng nhớ nghĩ đến lạnh nóng, mà cốt yếu là ta phải biết được mình sẽ theo ai để nghe bát nhã Ba la mật.

Này Tu Bồ Đề! Ví như có người chỉ có một đứa con nên họ hết sức thương yêu, bỗng một hôm nó bị chết làm cho họ rất buồn khổ người ấy chỉ ôm lòng buồn khổ mà không hề nghĩ gì khác.

Này Tu Bồ Đề! Tát Đà Ba Luân cũng như vậy, không có một sự nhớ nghĩ gì khác, chỉ nhớ nghĩ khi nào được nghe bát nhã Ba la mật.

Này Tu Bồ Đề! Khi Bồ Tát Tát Đà Ba Luân ưu sầu khóc lóc như vậy thì liền có Đức Phật đứng trước mặt khen: Lành thay, lành thay, này thiện nam! Khi xưa Chư Phật quá khứ hành Bồ Tát đạo để cầu bát nhã Ba la mật cũng như ông hiện nay.

Thế nên, này thiện nam! Ông lấy sự chăm chỉ thực hành, tinh tấn kính pháp mà đi đến phương Đông cách đây năm trăm do tuần, có thành tên là Chúng Hương.

Thành này được hợp thành bằng bảy báu với bảy lớp rộng dọc mười hai do tuần đều trồng cây Đa La bảy báu khắp xung quanh. Nhân dân ở đây an lạc, thái bình, đường xá xinh đẹp như bức tranh và cầu cống bến bờ rất rộng rãi, sạch sẽ. Bảy lớp trên thành đều có lâu đài làm bằng vàng Diêm Phù Đề.

Mỗi lâu đài có hàng cây bảy báu và có nhiều trái quý báu. Các lâu đài ấy cứ theo thứ lớp mà treo vải hồng, dây báu, linh báu, lưới mỏng che khắp. Trên thành ấy gió thổi khua phát ra năm loại kỹ nhạc hòa nhã rất đáng ưa thích và những âm thanh ấy làm vui vẻ cho chúng sinh. Bốn bên thành của lâu đài có ao nước sạch sẽ, lạnh nóng thích hợp, trong đó có thuyền được trang hoàng bằng bảy báu.

Các chúng sinh này do nghiệp ở đời trước mới được vui vẻ bơi thuyền dạo chơi khắp ao nước. Trong ao đó, có các loại hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng xen lần nhau rất đẹp và đầy đủ sắc hương che phủ khắp mặt nước và tất cả các loại hoa đẹp trong tam thiên đại thiên thế giới cũng đều có đủ trong ao đó.

Bốn bên thành này có năm trăm khu nhà vườn được trang hoàng bằng bảy loại báu rất đáng ưa thích. Trong mỗi một khu vườn có năm trăm ao nước, mỗi một ao nước rộng dọc mười dặm đều trang hoàng bằng bảy báu xen nhau.

Trong các ao nước đều có đủ các loại hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng lớn như bánh xe và che phủ trên mặt nước. Hoa màu xanh thì có ánh sáng xanh, hoa màu vàng thì có ánh sáng vàng, hoa màu đỏ thì có ánh sáng đỏ và hoa màu trắng thì có ánh sáng trắng.

Trong các ao nước ấy đều có các loại chim khác nhau như chim le, chim nhạn, uyên ương và các ao khắp cả các khu nhà vườn ấy không phụ thuộc vào ai cả, đó chỉ là do quả báo nghiệp trước của chúng sinh đêm ngày tin hiểu pháp sâu xa và thực hành bát nhã Ba la mật nên họ mới được phước đức như vậy.

Này thiện nam! Trong thành chúng hương có lâu đài cao lớn và ở phía trên là cung điện của Bồ Tát Đàm Vô Kiệt, cung điện ấy ngang dọc năm mươi dặm, đều dùng bảy loại báu trang hoàng thành nhiều màu sắc.

Tường ấy có bảy lớp cũng bằng bảy báu và xung quanh đều có hàng cây bảy báu bao quanh.

Trong cung điện đó có bốn khu nhà vườn thường làm những cuộc vui chơi: Một tên gọi là Thường Hỷ. Hai tên là Vô Ưu. Ba tên là Hoa Sức. Bốn tên là Hương Sức.

Trong từng khu vườn một có tám ao nước: Một tên là Hiền. Hai tên là Hiền Thượng. Ba tên là Hoan Hỷ. Bốn tên là Hỷ Thượng. Năm tên là An Ổn. Sáu tên là Đa An Ổn. Bảy tên là Tất Định và tám tên là A Tỳ Bạt Trí.

Ven bờ các ao nước mỗi mặt đều có các loại báu như: Hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, pha lê, ngọc mai khôi dùng làm đáy ao, cát vàng trải lên trên. Cạnh của mỗi một ao có tám bậc thềm làm bằng các loại vật báu. Khoảng giữa bậc thềm có cây chuối bằng vàng Diêm phù đàn và trong các ao nước đều có đủ các loài hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng che phủ trên mặt nước.

Cũng có các loại chim như: Chim le, chim nhạn, uyên ương và khổng tước, tiếng kêu của chúng hòa nhã rất đáng ưa thích. Ven bờ các ao nước đều trồng những cây hương, cây hoa, mỗi khi gió thổi thì hương hoa ấy đều rơi xuống ao nước.

Ao ấy thành tựu nước tám công đức và cả mùi hương thơm dường như Chiên Đàn có đầy đủ màu sắc và mùi vị. Bồ Tát Đàm Vô Kiệt cùng sáu vạn tám ngàn thể nữ đầy đủ năm dục cùng nhau vui chơi và cả nam nữ trong thành này đều vào trong ao Hiền… và vườn Thường Hỷ… để cùng nhau vui chơi.

Này thiện nam! Bồ Tát Đàm Vô Kiệt cùng các thể nữ vui chơi xong, ngày ngày ba thời nói bát nhã Ba la mật. Trai gái lớn nhỏ trong thành chúng hương vì Bồ Tát Đàm Vô Kiệt mà tập hợp đông đảo ở chỗ đó để trải pháp tòa lớn.

Bốn chân pháp tòa ấy hoặc làm bằng vàng ròng hoặc bằng bạc, pha lê, lưu ly, phía trên thì trải nệm êm dày nhiều màu sắc và dùng loại lụa trắng ở nước Ca Thi trải phủ trên đó. Tòa cao năm dặm có giăng rèm trướng, bốn bên thành thì rải hoa năm màu và đốt các loại hương để cúng dường pháp. Bồ Tát Đàm Vô Kiệt ngồi ở trên tòa này thuyết pháp bát nhã Ba la mật.

Này thiện nam! Dân chúng trong thành kia cung kính cúng dường Bồ Tát Đàm Vô Kiệt như vậy là vì muốn nghe bát nhã Ba la mật. Tại đại hội này có trăm ngàn vạn chúng, Chư Thiên và người cả thế gian đều tập hợp lại một chỗ.

Trong số đó, có người lắng nghe, trong số đó có người tin thọ, có người trì niệm, có người đọc tụng, có người biên chép, có người chánh quán và có người thực hành đúng như pháp. Các chúng sinh ấy đã vượt qua đường ác, không bị thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Này thiện nam! Ông hãy đi đến chỗ của Bồ Tát Đàm Vô Kiệt để nghe bát nhã Ba la mật. Bồ Tát Đàm Vô Kiệt đời đời là thiện tri thức của ông, vị ấy chỉ dạy lợi ích của sự hoan hỷ để ông đạt đến Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Này thiện nam! Khi xưa Bồ Tát Đàm Vô Kiệt hành Bồ Tát đạo để cầu bát nhã Ba la mật cũng như ông ngày nay vậy. Nay ông đi về phương Đông và chớ tính kể ngày đêm, chẳng bao lâu nữa ông sẽ được nghe bát nhã Ba la mật.

Khi ấy tâm của Bồ Tát Tát Đà Ba Luân rất vui mừng. Ví như có người bị trúng mũi tên độc mà không hề nhớ nghĩ gì khác, chỉ nghĩ đến khi nào được gặp thầy thuốc để nhổ mũi tên độc kia ra thì mới trừ hết đau khổ cho ta.

Cũng vậy, Bồ Tát Tát Đà Ba Luân lúc đó cũng không nhớ nghĩ gì khác, mà chỉ nghĩ: Khi nào được gặp Bồ Tát Đàm Vô Kiệt để Ngài nói bát nhã Ba la mật cho ta. Nếu được nghe bát nhã Ba la mật thì ta sẽ đoạn trừ các hữu kiến.

Khi ấy đang ở tại trụ xứ của mình, Tát Đà Ba Luân đối với tất cả các pháp sinh tưởng vô quyết định và liền nhập các pháp môn tam muội. Đó là tam muội quán các pháp tính, tam muội các pháp không thể chứng đắc, tam muội phá các pháp vô minh, tam muội các pháp không khác.

Tam muội các pháp chẳng hoại, tam muội các pháp chiếu sáng, tam muội các pháp xa lìa tối tăm, tam muội các pháp không nối tiếp nhau, tam muội các pháp tính không thể chứng đắc, tam muội tán hoa, tam muội không thọ các thân, tam muội lìa bỏ hư huyễn.

Tam muội ví như hình bóng trong gương, tam muội tất cả chúng sinh nói năng, tam muội tất cả chúng sinh vui mừng, tam muội thuận theo tất cả điều thiện, tam muội đủ thứ lời nói với câu chữ trang nghiêm, tam muội không sợ hãi, tam muội tánh thường im lặng.

Tam muội vô ngại giải thoát, tam muội xa lìa cảnh trần nhơ bẩn, tam muội danh tự ngữ ngôn trang nghiêm, tam muội tất cả kiến, tam muội không ngăn ngại ranh giới, tam muội như hư không, tam muội như kim cang, tam muội không thất bại, tam muội đắc thắng.

Tam muội chuyển nhãn, tam muội tất pháp tính, tam muội được an ổn, tam muội Sư Tử gầm thét, tam muội thắng tất cả chúng sinh, tam muội xa lìa nhiễm bẩn của mọi phiền não, tam muội không có cấu và tịnh, tam muội hoa trang nghiêm, tam muội tùy kiên thực.

Tam muội phát xuất các pháp đắc lực không sợ hãi, tam muội thông suốt các pháp, tam muội hoại tất cả pháp ấn, tam muội không sai biệt kiến, tam muội xa lìa tất cả kiến, tam muội xa lìa tất cả tối tăm, tam muội xa lìa tất cả tướng, tam muội giải thoát tất cả chấp trước.

Tam muội xa lìa tất cả sự biếng nhác, tam muội pháp cực kỳ huyền diệu chiếu sáng, tam muội thiện đỉnh cao, tam muội không thể đoạt, tam muội phá ma, tam muội phát sinh ánh sáng, tam muội thấy Chư Phật.

Bồ Tát Tát Đà Ba Luân trụ trong các tam muội ấy thì liền thấy Chư Phật khắp mười phương nói bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát.

Mỗi mỗi Chư Phật đều an ủi và khen Bồ Tát ấy: Lành thay, lành thay, này thiện nam! Khi xưa chúng ta hành Bồ Tát đạo để cầu bát nhã Ba la mật cũng như ông ngày nay vậy.

Chúng ta chứng đắc các tam muội ấy, cũng giống như hiện nay ông chứng đắc vậy, ông sẽ hiểu rõ bát nhã Ba la mật, rồi mới trụ vào địa vị không thoái chuyển. Chư Như Lai vì chứng được các tam muội đó nên mới chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Này thiện nam! Đó là bát nhã Ba la mật. Gọi là các pháp không có sở niệm. Chúng ta trụ ở trong pháp không có vọng niệm mà được thân mình sắc vàng với ba mươi hai tướng, ánh sáng rỡ ràng, trí tuệ không thể nghĩ bàn, vô thượng tam muội, vô thượng trí tuệ của Chư Phật đạt đến tận cùng của các công đức. Các công đức ấy Chư Phật nói ra còn không hết, huống gì là Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Thế nên, này thiện nam! Ông phải đem tâm thanh tịnh cung kính và tôn trọng pháp này gấp bội thì sự chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác không lấy gì làm khó khăn. Đối với vị thiện tri thức ông phải nhiệt tâm cung kính, tôn trọng và tin ưa.

Này thiện nam! Bồ Tát nào được thiện tri thức hộ niệm thì vị ấy mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Bồ Tát Tát Đà Ba Luân bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Những vị nào là thiện tri thức của con?

Đức Phật dạy: Này thiện nam! Bồ Tát Đàm Vô Kiệt là vị đời đời chỉ dạy cho ông thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, làm cho ông được học sức phương tiện bát nhã Ba la mật. Vì vậy, chính Bồ Tát Đàm Vô Kiệt là thiện tri thức của ông, ông phải nên báo ân cho vị ấy.

Này thiện nam! Nếu trong một kiếp, hai kiếp, ba kiếp cho đến một trăm kiếp, hoặc hơn một trăm kiếp mà ông đem tâm cung kính tôn trọng bằng cách: Đội vị ấy trên đầu, cho đến đem tất cả dụng cụ âm nhạc mà cúng dường vị ấy, hoặc đem sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt đẹp cả tam thiên đại thiên thế giới dâng lên cúng dường vị thiện tri thức ấy cũng chưa có thể báo ân trong chốc lát.

Vì sao vậy?

Vì nhờ năng lực và nhân duyên của Bồ Tát Đàm Vô Kiệt nên ông mới chứng các tam muội sâu xa ấy để được nghe phương tiện bát nhã Ba la mật.

Chỉ dạy và an ủi cho Bồ Tát Tát Đà Ba Luân xong, bỗng nhiên Đức Phật liền biến mất.

Bồ Tát Tát Đà Ba Luân từ tam muội xuất định thì không thấy Chư Phật liền suy nghĩ: Các Đức Phật ấy trước đây từ đâu đến và nay các vị ấy sẽ đi đến chỗ nào?

Vì không thấy Chư Phật nên Bồ Tát Tát Đà Ba Luân ưu sầu và suy nghĩ: Bồ Tát Đàm Vô Kiệt này đã chứng các thần thông lực Đà La Ni. Ngài đã từng cúng dường Chư Phật thời quá khứ, đời đời Ngài là Thiện trí thức của ta, thường làm lợi ích cho ta, ta hãy đến chỗ của Bồ Tát Đàm Vô Kiệt để thưa hỏi Chư Phật này từ đâu đến và sẽ đi về đâu.

Lúc này, tâm của Bồ Tát Tát Đà Ba Luân càng cung kính tôn trọng và tin ưa Bồ Tát Đàm Vô Kiệt và nghĩ: Hiện nay ta quá nghèo khổ, không có hoa hương, anh lạc, hương đốt, hương xoa, y phục, phướn lọng, vàng bạc, trân châu, pha lê, san hô.

Tất cả những vật như vậy ta đều không có thì lấy gì để cúng dường Bồ Tát Đàm Vô Kiệt. Bây giờ ta không nên đến chỗ Bồ Tát Đàm Vô Kiệt bằng hai tay không, nếu đến như vậy thì lòng ta không yên. Vậy ta sẽ bán thân mình để lấy tài vật vì bát nhã Ba la mật mà cúng dường Bồ Tát Đàm Vô Kiệt.

Vì sao vậy?

Vì nhiều đời đến nay ta đã để mất vô số thân nên từ vô thỉ kiếp phải luân hồi trong sinh tử. Vì nhân duyên tham dục nên chịu vô lượng khổ ở địa ngục, chưa từng làm được pháp thân thanh tịnh.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần