Phật Thuyết Kinh Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn - Phẩm Ba - Phẩm Phân Biệt Lời Nói Pháp

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT KINH

TRÌ TÂM PHẠM THIÊN SỞ VẤN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẨM BA

PHẨM PHÂN BIỆT LỜI NÓI PHÁP  

Lúc ấy, Bồ Tát Minh Võng nói với Phạm Thiên Trì Tâm: Chỉ nhân giả mới có thể hiểu những điều luận bàn tôn quý, sâu xa, thấu tỏ ý nghĩa nơi các phương tiện của Bồ Tát.

Đức Phật đã giảng nói rõ, vậy thế nào là Bồ Tát có điều muốn thưa hỏi ứng hợp với sự luận bàn vi diệu?

Phạm Thiên Trì Tâm đáp: Người bình đẳng đối với ngã và ngã sở để hỏi, là hỏi thuận theo nghĩa lý bình đẳng hỏi về sự giữ gìn các hạnh của người khác, đó là hỏi thích hợp bình đẳng hỏi về hình tướng của các pháp, đó là hỏi thích hợp.

Lại nữa, này Bồ Tát Minh Võng! Không chấp về ngã, ngã sở, không chấp về người khác, không chấp vào pháp để hỏi, đó là hỏi thích hợp hỏi về sự sinh khởi, hỏi về sự diệt tận, hoặc hỏi về nơi chốn, đó là hỏi thích hợp giả sử có người hỏi về pháp không chỗ sinh khởi, không diệt tận, cũng không có nơi chốn, đó là hỏi thích hợp.

Nếu hỏi về các tham dục, phiền não của người khác, hoặc hỏi về sự tranh cãi điên đảo, đó là hỏi thích hợp hỏi về sinh tử, sự vượt qua sinh tử, hỏi về vô vi, đó là hỏi thích hợp.

Không hỏi về phiền não về sự không điên đảo, không sinh tử, không vượt qua sinh tử, cũng không có Niết Bàn, đó là hỏi thích hợp.

Vì sao?

Vì người quan sát các pháp cũng khổng tịch tĩnh, không bỏ tham dục, điên đảo, sinh tử, vô vi, đó là hỏi thích hợp. Điều mà người hỏi đạt được đó cũng là thích hợp. Giả sử lại hỏi có sự chứng đắc, đến lúc nào đó có sự đoạn trừ, hoặc có sự thực hành, đó là hỏi thích hợp.

Nếu có người không hỏi về sự chứng đắc, sự nhớ nghĩ về các tưởng, không giới hạn thời gian, không chấp giữ, không đoạn trừ các tưởng, cũng không thấy sự thực hành, đó là hỏi thích hợp. Vì tất cả chúng sinh mà thưa hỏi, tâm không vướng mắc, ý không nghĩ đến sự hỏi, đó là hỏi thích hợp.

Nếu hỏi về các căn lành, phước đức, đó là hỏi thích hợp với chân như. Nếu không hỏi về căn lành phước đức, đó là hỏi không thích hợp với chân như.

Đây là việc thế tục, đây là việc vượt qua thế tục, đây là điều tội lỗi, đây là điều không tội lỗi, đây là các lậu, đây là chấp giữ, đây là không chấp giữ, nếu hỏi về hai việc như trên, chấp giữ những việc này là hỏi không thích hợp.

Nếu không hỏi cũng không thấy có hai việc ấy, đó là hỏi thích hợp. Nếu hỏi có bao nhiêu người nhìn thấy các Đức Phật, đó là hỏi thích hợp hỏi có bao nhiêu pháp, đó là hỏi thích hợp với chân như hỏi Thánh Chúng có bao nhiêu, đó là hỏi thích hợp với chân như.

Hỏi chúng sinh có bao nhiêu, cõi nước có bao nhiêu, đó là hỏi thích hợp với chân như, hỏi về các thừa có bao nhiêu, chỗ dứt các tưởng có bao nhiêu, đó là hỏi thích hợp với chân như.

Pháp không có liên quan, cũng không có bao nhiêu mà hỏi để luận bàn, đó là hỏi thích hợp với chân như. Tất cả các pháp đều thích hợp với chân như, tất cả các pháp cũng không thích hợp với chân như.

Bồ Tát Minh Võng hỏi Phạm Thiên: Tất cả các pháp thích hợp với chân như và không thích hợp với chân như là thế nào?

Phạm Thiên đáp: Người có thể hiểu rõ các pháp thì pháp ấy thích hợp với chân như. Nếu hỏi các pháp về tâm để làm cho tâm tinh tấn, đó là không thích hợp.

Nếu cho rằng, tất cả các pháp và tướng của các pháp đều vắng lặng đều không và không phân biệt, đó là thích hợp. Người không vui thích trong pháp tịch tĩnh, đó là thích hợp. Người tinh tấn thực hành theo như vậy, dù có thực hành với tâm kiêu mạn thì cũng là thích hợp với chân như.

Bồ Tát Minh Võng lại hỏi: Thế nào là quán xét các pháp?

Phạm Thiên đáp: Bản tánh tịch tĩnh, lìa hẳn tham dục, là quán xét các pháp.

Bồ Tát Minh Võng lại hỏi: Sao lại có rất ít người lãnh hội như vậy, mà chỉ hiểu điều không thích hợp với chân như, không lìa tham dục mà luận bàn đạo pháp?

Phạm Thiên đáp: Có nhiều người không xa lìa hẳn tham dục mà thực hành và luận bàn các pháp hợp với chân như. Những người đã hiểu, vừa mới hiểu và sẽ hiểu, thì những người ấy cũng không hiểu các pháp, cũng không có chứng đắc, cũng không có người và cũng không có điều để hiểu.

Vì sao?

Vì Đức Thế Tôn đại bi đâu có nói gì. Mà họ lại nghe Đức Phật có thuyết pháp, rồi tu hành tinh tấn, làm theo lời dạy, trọn đời họ cũng không được trở về với bản tánh của mình.

Nếu có đạt được điều gì, thì chẳng phải là chỗ quay về, là nơi hướng đến vì sự tu tập là không trở lại sinh tử, cũng không đạt đến Niết Bàn.

Vì sao?

Vì điều mà Đức Thế Tôn đã thông đạt thì không có sinh tử, cũng chẳng có Niết Bàn.

Bồ Tát lại hỏi: Đức Phật không vượt qua các nghiệp của sinh tử mà thuyết pháp sao?

Phạm Thiên đáp: Đức Thế Tôn có tự nói: Ta đã vượt qua sinh tử hay không?

Thưa không.

Cho nên, thưa Nhân Giả! Đức Phật Thế Tôn không bỏ sinh tử, không cầu Niết Bàn. Giả sử có các tưởng về sinh tử và Niết Bàn thì cũng không vượt qua cả hai, vì Ngài không có sinh tử. Người nào có chỗ để vượt qua thì không thể đạt được Niết Bàn.

Vì sao?

Vì sinh tử và Niết Bàn cũng đều bình đẳng. Vì không có sinh tử, cũng chẳng có Niết Bàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn khen Phạm Thiên Trì Tâm: Lành thay, lành thay!

Này Phạm Thiên! Nếu muốn giảng nói điều gì thì phải giảng nói như vậy mới thật sự là nói. Khi giảng nói lời ứng hợp này, có hai ngàn Tỳ Kheo đã đoạn trừ hết các phiền não, tâm đạt giải thoát.

Đức Phật nói với Phạm Thiên: Như Lai không trở lại sinh tử, cũng không vào Niết Bàn. Tuy thị hiện nơi sinh tử nhưng không có lưu chuyển, cũng không diệt độ, không lo buồn, cũng không thấy có người và có sự diệt độ.

Giả sử có Phạm Thiên nào hiểu được ý nghĩa này, thì vị ấy không còn ở nơi sinh tử, cũng không thấy có pháp Niết Bàn.

Lúc này, trong chúng hội có năm trăm Tỳ Kheo, từ chỗ ngồi đứng dậy đi ra, liền nói như vậy: Trong lúc tu tập phạm hạnh, chúng ta đều nghĩ là sẽ được diệt độ, nhưng nếu không có người được diệt độ, dù có dốc chí tu tập theo đạo này thì thật là uổng công, đâu có thể đạt được trí tuệ?

Bấy giờ, Bồ Tát Minh Võng bạch Phật: Như vậy, bạch Thế Tôn! Giả sử có người muốn khiến cho pháp sinh khởi, đối với những hạng người ấy thì Đức Phật không ra đời, họ không thể vượt qua các nạn khổ nơi sinh tử, vì họ quyết định cầu đạt Niết Bàn.

Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Niết Bàn là dứt bặt tất cả các niệm và tưởng, cũng không vọng động hư dối, đó là sự thông tuệ thù thắng, đặc biệt. Nếu các Tỳ Kheo này bằng lòng như vậy tức họ đã tự khinh khi với chính mình.

Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Các vị ấy đôi với chánh pháp và luật của Phật, xuất gia tu hành mà nay bị rơi vào hàng ngoại đạo tà kiến, cho Niết Bàn là có xứ sở, giống như từ mè làm thành dẫu, từ váng sữa làm Đề Hồ.

Bạch Thế Tôn! Người nào đối với tướng diệt tận của các pháp mà cầu đạt được Niết Bàn thì con cho rằng người ấy là kẻ tăng thượng mạn.

Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Người tu hành đúng nghĩa thì không có đối tượng để tu tập, người muôn đạt được bình đẳng, thì không bao giờ thọ lập dấy khởi chấp về pháp và thủ đắc về Niết Bàn, cũng không có sự mong cầu. Người muốn chứng đắc về pháp thì cũng không chấp nơi bình đẳng.

Bấy giờ, Bồ Tát Minh Võng nói với Phạm Thiên Trì Tâm: Khi Nhân Giả giảng nói những lời này, có năm trăm Tỳ Kheo nghe xong liền từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi.

Nhân Giả biết tâm niệm và sự hướng đến của những người ấy là có lòng tin, sao họ không hiểu được Chánh Pháp, phải nên cứu giúp họ thoát khỏi lưới tà kiến?

Phạm Thiên Trì Tâm đáp: Thưa Đại Sĩ! Giả sử họ có đi đến các cõi nước của Chư Phật, với kiếp số nhiều như số cát nơi sông Hằng không thể tính kể, thì họ cũng không thể thoát khỏi pháp môn này. Giống như người ngu si, vì sợ hư không nên dong ruổi khắp nơi nhưng cũng không thể lìa khỏi hư không.

Các Tỳ Kheo này cũng vậy, giả như họ có thể đi xa không thể hạn lượng, thì tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện vẫn là thật tướng.

Giống như có người thứ hai dốc tìm kiếm hư không khắp mười phương, muôn có được hư không, liền suy nghĩ: Ta muốn có được hư không. Ta sẽ đạt được hư không và ở trong đó. Người này tự nói về hư không nhưng không hề biết hư không là gì. Tất cả lời nói và việc làm của người ấy đều ở trong hư không, nhưng không thấy hư không.

Như vậy, thưa Đại Sĩ! Các Tỳ Kheo này vì cầu được diệt độ nên thực hành về Niết Bàn, vì cầu Niết Bàn nên không thể lãnh hội được chỗ hội nhập.

Vì sao?

Vì cho đạt được Niết Bàn thì đó chỉ là giả danh. Giống như hư không, nếu có đi qua hay ở trong hư không, thì lời nói về hư không cũng gọi là không. Niết Bàn cũng vậy chỉ là giả danh mà thôi.

Khi ấy, nghe Phạm Thiên Trì Tâm giảng nói như thế xong, có năm trăm Tỳ Kheo đoạn trừ hết các phiền não, đạt được thần thông liền khen ngợi: Bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp đều là Niết Bàn. Giả sử có người nào cầu đạt Niết Bàn, thì đôi với người ấy Đức Phật không ra đời.

Kính bạch Đấng Đại Thánh! Chúng con hiện tại chẳng phải là phàm phu, không phải là hàng hữu học cũng chẳng phải là bậc vô học, không có sinh tử cũng chẳng có Niết Bàn, cũng không có pháp diệt độ.

Vì sao?

Vì đối với các thông tuệ, chúng con đã xa lìa sự hiểu biết vốn có, làm hưng khởi Phật Pháp.

Bấy giờ, Tôn Giả Xá Lợi Phất bảo các Tỳ Kheo: Các vị đã kiến lập, thông đạt đối với tuệ này và tự đạt được lợi ích chăng?

Các Tỳ Kheo đáp: Chúng tôi đã kiến lập và thông đạt đối với các phiền não không còn tạo tác.

Vì sao các vị nói như vậy?

Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Vì đoạn trừ phiền não, biết được thật tướng của phiền não, rõ tánh của Niết Bàn là không tạo tác. Do đó, chúng tôi mới nói là đã hội nhập vào thông tuệ, ở trong phiền não mà không hề tạo tác.

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Lành thay, lành thay! Thưa các Nhân Giả!

Ta xin hỏi các vị, các vị đã kiến lập quả vị của Như Lai rồi sao?

Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Đức Thế Tôn cũng còn là bậc Như Lai chưa hoàn toàn thanh tịnh, huống chi là chúng tôi mà đạt đến sự thanh tịnh rốt ráo.

Lại hỏi: Do đâu mà nói như thế?

Đức Phật biết rõ về Pháp Giới vốn là thanh tịnh.

Lúc ấy, Phạm Thiên Trì Tâm bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Sao gọi là bậc Như Lai ứng hiện ở đời?

Đức Phật bảo Phạm Thiên: Không bị mê hoặc theo pháp thế gian, cũng không chê bai pháp thế gian.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là làm thanh tịnh hết các việc của Như Lai?

Phật dạy: Nếu đối với các pháp, không có đối tượng để thọ nhận.

Bạch Thế Tôn! Ai là ruộng phước của thế gian?

Phật dạy: Là người không làm mất tâm Bồ Đề.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là bạn lành của chúng sinh?

Phật dạy: Không xa lìa tất cả chúng sinh.

Bạch Thế Tôn! Người nào có sự báo đáp đối với Như Lai?

Phật dạy: Người không chống trái, nghi ngờ lời Phật dạy.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là phụng sự Như Lai?

Phật dạy: Là người hiểu rõ và đạt đến cảnh giới vô sinh.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là gần gũi với hạnh của Như Lai?

Phật dạy: Thà mất thân mạng, không bao giờ hủy bỏ giới cấm.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là người cung kính đối với Như Lai?

Phật dạy: Người tu hành luôn phòng hộ các căn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là sự giàu có ở thế gian?

Phật dạy: Là đầy đủ bảy báu.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là người biết nhàm chán nơi thế gian?

Phật dạy: Là người đã đạt và vượt trên trí tuệ ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hiểu rõ?

Phật dạy: Là đối với ba cõi, không có đối tượng để mong muốn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là can ngăn và dẫn dắt thế gian?

Phật dạy: Đó là người không còn các kết sử, trói buộc.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là ở an ổn trong thế gian?

Phật dạy: Đó là người không tham lam, không nhận của cải.

Thế nào là không tham lam?

Vì không có năm ấm ngăn che.

Thế nào là xa lìa sự ngăn che của năm ấm?

Là xa lìa sáu nhập, cũng không có đôi tượng để buông bỏ.

Thế nào là luôn vượt hơn chính mình?

Là trí tuệ hiểu rõ về đạo.

Thế nào là Bồ Tát làm chủ việc bố thí?

Là khuyến khích, giáo hóa tất cả chúng sinh khiến họ được nhập vào thông tuệ.

Thế nào là giữ gìn giới cấm?

Là không bỏ tâm bồ đề.

Thế nào là nhẫn nhục?

Là biết tâm đạt được sự diệt tận.

Thế nào là tinh tấn?

Là tìm tâm mà không thủ đắc về nơi chốn.

Thế nào là nhất tâm?

Là tâm hoàn toàn buông bỏ.

Thế nào là trí tuệ?

Đối với tất cả pháp, không có sự hý luận.

Thế nào là Bồ Tát thực hành tâm từ?

Là không thực hành theo các tướng chấp.

Thế nào là Bồ Tát thực hành tâm bi?

Là không nhớ nghĩ về các pháp.

Thế nào là Bồ Tát thực hành về hỷ?

Là không chấp vào ngã và ngã sở.

Thế nào là Bồ Tát thực hành pháp xả?

Là không chấp vào tưởng của mình hay tưởng của người.

Thế nào là Bồ Tát kiến lập niềm tin vững chắc?

Là không lìa bỏ các pháp thanh tịnh.

Thế nào là Bồ Tát học rộng nghe nhiều, an trụ vào không?

Là không nương tựa vào tất cả âm thanh ngôn ngữ.

Thế nào gọi là hổ?

Là hiểu rõ và đoạn trừ hết các pháp bên trong.

Thế nào gọi là thẹn?

Không tập theo các pháp bên ngoài.

Thế nào là Bồ Tát hội nhập vào khắp tất cả?

Lúc ấy, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Nếu thân thanh tịnh

Không phạm điều ác

Lời nói thanh tịnh

Luôn nói thành thật,

Tâm ý thanh tịnh

Thực hành lòng từ

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Tu theo lòng từ

Không còn phiền não

Luôn tu lòng bi

Không hề sân hận,

Lại thêm tâm xả

Nên chẳng ngu si

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Nếu đến xóm làng

Hoặc nơi vắng vẻ

Thành ấp an ổn

Và trong chúng hội,

Chưa từng chống trái

Oai nghi lễ tiết

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Lòng tin trùm khắp

Chánh Pháp Chư Phật

Lại thường vui thích

Kinh Điển vô ngã,

Thánh Chúng hoan hỷ

Không có luận bàn

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Thoát khỏi sắc, dục

Chẳng đối tượng biết

Vượt qua sân hận

Không đối tượng vượt,

Hiểu rõ các hành

Là nơi hướng đến

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Không hề trụ chấp

Đối với Cõi Dục

Cũng không kiến chấp

Ở trong Cõi Sắc,

Không còn đắm nhiễm

Trong Cõi Vô Sắc

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Tin hiểu tất cả

Các pháp là không

Nhưng vì chúng sinh

Tư tưởng dong ruổi,

Do đó không thể

Sạch hết phiền não

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Hiểu rõ hết thảy

Duyên Giác, Thanh Văn

Nhưng vì phương tiện

Khai thị người mê,

Nên dùng âm thanh

Giáo hóa cho họ

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Hiểu rõ hết thảy

Các nẻo hướng đến

Chưa từng chống trái

Lời dạy Đạo Sư,

Đối với ghét thương

Thực hành bình đẳng

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Chưa từng nghĩ nhớ

Các pháp quá khứ

Hiện tại, vị lai

Cũng lại như vậy,

Không nương, chắp giữ

Tất cả nơi chốn

Đây là Bồ Tát

Vào khắp tất cả.

Bấy giờ, Phạm Thiên Trì Tâm bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát vượt qua pháp thế gian, thông đạt pháp thế gian, hiện tại đi vào thế gian để cứu độ chúng sinh thị hiện tâm bình đẳng đối với pháp thế gian, nương vào pháp thế gian để ở trong thế gian mà không hề hủy hoại pháp ấy, cũng chẳng làm mất tâm bồ đề?

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Thế gian là năm ấm

Không vướng mắc thế gian

Cũng chẳng hề tham đắm

Không bỏ pháp thế gian,

Bồ Tát hiểu rõ ràng

Về thật tướng thế gian

Năm ấm không nguồn gốc

Không chấp pháp thế gian.

Lợi ích hay chẳng lợi

Khen ngợi hoặc chê bai

Danh tiếng, không danh tiếng

Hổ thẹn, khổ hoặc vui,

Bồ Tát có trí tuệ

Tuy ở trong thế gian.

Không vướng vào tham dục

Tâm bồ đề chẳng động.

Lợi ích chẳng vui mừng

Tổn hao cũng không lo

Kiên cố như núi lớn

Không gì lay động được.

Khen ngợi hoặc chê bai

Tâm vị ấy bình đẳng

Danh tiếng, không danh tiếng

Khổ, vui, tâm bình đẳng.

Biết thật tướng thế gian

Đều khởi từ điên đảo

Thông đạt, ở trong đời

Chẳng lệ thuộc thế gian.

Nếu đi vào thế tục

Biết rõ nơi cần đến

Tùy theo nghiệp chúng sinh

Để cứu họ thoát khổ.

Dũng mãnh nơi thế gian

Vượt lên như hoa sen

Không hủy hoại thế gian

Do thông đạt pháp tánh.

Người đời ở thế gian

Không hiểu rõ các pháp

Bồ Tát ở thế gian

Tường tận tướng thế tục.

Thế gian, tướng hư không

Cũng không tướng hư không

Bồ Tát hiểu điều này

Nên chẳng nhiễm thế tục.

Tùy theo điều đã biết

Để giáo hóa chúng sinh

Thông suốt các thật tướng

Khổng hủy hoại thế gian.

Không chấp vào năm ấm

Là thật tướng thế gian

Vì không hiểu như vậy

Nên luôn vướng thế tục.

Nếu xa kìa năm ấm

Không khởi, không chấp giữ

Tuy vẫn ở trong đời

Nhưng chẳng hề vướng mắc.

Không hiểu pháp thế gian

Nên luôn thích tranh cãi

Do hư vọng, không thật

Nên kiến lập hai tướng.

Ta chưa từng can thiệp

Tranh cãi về thế gian

Do nhân duyên như vậy

Ta giảng thật tướng pháp.

Pháp là không tranh cãi

Lời dạy của Chư Phật

Hiểu thế gian bình đẳng

Không giả, cũng chẳng thật.

Giả sử nói Phật Pháp

Là giả dối, chân thật

Là lợi ích, tổn hại

Thì giống với ngoại đạo.

Thật nghĩa của các pháp

Không thật, không hư vọng

Nên Như Lai giảng nói

Pháp xuất thế không hai.

Ta đạt được trí tuệ

Thông đạt pháp thế gian

Không hư vọng, không thật

Thấy được mọi lỗi lầm.

Nên soi sáng thế gian

Thành bậc Đại Danh Văn

Ta đã hiểu rõ đời

Thanh tịnh, không nhơ uế.

Ai quan sát thế gian

Tự thân thấy thật tướng

Là thấy Chư Như Lai

Hiện tại khắp mười phương.

Biết pháp từ duyên sinh

Các pháp không thật tướng

Nếu hiểu rõ nhân duyên

Thì thâu đạt pháp tánh.

Nếu thông đạt pháp tánh

Thì hiểu rõ về không

Nếu tường tận tướng không

Chắc chắn thấy Đạo Sư.

Giả sử dùng âm thanh

Giảng nói về thế gian

Tuy làm việc thế gian

Nhưng không hề nương tựa.

Người rơi vào kiến chấp

Chẳng lầm được điều này

Giả gọi ở trong đời

Không nhiễm việc thế tục.

Sau khi Phật diệt độ

Người nào thích pháp nhẫn

Hiện tại Phật vì họ

Mà hiện bày Pháp Thân.

Nếu ai tu pháp này

Là đã cúng dường Phật

Nên biết là người ấy

Làm Đạo Sư cho đời.

Cho dù Ma Ba Tuần

Cũng không thể hại được

Nếu ở trong thế gian

Giảng nói về Kinh này.

Là bậc đại trí tuệ

Bô thí tất cả pháp

Giữ tịnh giới hoàn hảo

Mau thành bậc Đạo Sư.

Đạt đến nhẫn, dũng mãnh

Vị ấy luôn tinh tấn

Thông đạt, thích Thiền định

Hiểu rõ về thế gian.

Giảng pháp không của Phật

Những ai nghe pháp này

Chắc chắn ở Đạo Tràng

Thành Đại Sĩ hàng ma.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần