Phật Thuyết Kinh Trì Thế - Phẩm Ba - Phẩm Mười Tám Tánh - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH TRÌ THẾ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẨM BA
PHẨM MƯỜI TÁM TÁNH
TẬP HAI
Này Bồ Tát Trì Thế! Thế nào là Đại Bồ Tát quán sát ý thức tánh?
Đại Bồ Tát nghĩ thế này: Tánh bất sinh là ý thức tánh, tánh không nhất định là ý thức tánh. Ý thức tánh không nguồn gốc, không có pháp nhất định, dùng ý thức tánh chỉ rõ về tướng vô tánh.
Vì sao?
Vì trong ý thức tánh, tánh ý thức là không thể thủ đắc. Tánh ý thức này hư vọng không sở hữu, tương ưng với điên đảo, lấy ý làm đầu, do biết các pháp nên gọi là ý thức. Vì tùy theo chỗ hành của phàm phu nên gọi là ý thức tánh.
Hiền Thánh quán biết phi tánh là ý thức tánh, hư vọng, không sở hữu là ý thức tánh. Nhưng vì chỉ rõ về pháp nhân duyên, vì lấy ý đứng đầu, vì biết các duyên hòa hợp nên nói là ý thức tánh. Tùy theo chỗ hiểu biết của chúng sinh nên nói như vậy.
Người trí biết phi tánh là ý thức tánh, từ các duyên sinh ra, do nhớ tưởng phân biệt khởi lên, không có tánh tướng. Tức là ở trong Đệ nhất nghĩa không có nghĩa của tánh, tướng. Để hướng dẫn chúng sinh trong pháp thế tục nên nói là ý thức tánh.
Muốn làm cho chúng sinh biết: Vô tánh là ý thức tánh, chỉ vì để tiểu pháp hoại lìa các tánh nên nói là ý thức tánh.
Vì sao?
Vì Thánh Nhân tìm cầu tánh ý thức là không thể thủ đắc. Ý thức tánh không ở trong tánh ý thức, không ở ngoài tánh ý thức, không ở trung gian. Người trí thông đạt tánh bất hợp là ý thức tánh. Ý thức không thể biết ý tánh, ý tánh không biết ý thức. Chỉ do các duyên sinh ra, từ điên đảo khởi lên do ý làm chủ.
Biết các duyên vì hai việc hòa hợp, vì vướng mắc nơi hư vọng, từ giác quán khởi sinh vì chỉ bày tướng thức cho chúng sinh nên nói là ý thức tánh. Ý thức này không ở quá khứ, không ở vị lai, không ở hiện tại, ý thức này không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, không có trú xứ. Từ xưa đến nay, ý thức không có tướng sinh, trong ý thức không có nguồn gốc pháp định.
Vì sao?
Vì tánh tướng của ý thức này tức không có hai tướng, tức là vô tướng, vì tướng ấy không do hai tướng mà có. Tánh không chỉ rõ được là ý thức tánh. Người trí thông đạt tánh của ý thức như vậy, ý thức tánh này không ở trong tất cả pháp, không nơi chốn, không phương hướng, không cùng với pháp hoặc hợp, hoặc tan.
Thánh Nhân thông đạt tướng bất sinh là ý thức tánh. Ý thức tánh này không đến, không đi, không duyên.
Vì sao?
Vì trong Đệ nhất nghĩa, ý thức tánh không duyên, không thể thủ đắc, không thể chỉ bày. Người trí thông đạt ý thức tánh không tạo tác là ý thức tánh, vì không thể tìm được tác giả. Vô sinh là ý thức tánh, vì tướng sinh là không chỗ thủ đắc.
Này Bồ Tát Trì Thế! Đại Bồ Tát quán sát về ý thức tánh như vậy. Khi các Bồ Tát khởi quán này, quán chọn Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới đều là tánh không sinh, là tánh vô sở hữu.
Thế nào là quán?
Nghĩa là trong Dục Giới không có Dục Giới, trong Sắc Giới không có Sắc Giới, trong Vô Sắc Giới không có Vô Sắc Giới. Dùng giới để chỉ bày về pháp không giới. Vì người chấp giữ tướng Dục Giới thì chỉ bày Dục Giới, người chấp giữ tướng Sắc Giới thì chỉ bày Sắc Giới, người chấp giữ tướng Vô Sắc Giới thì chỉ bày Vô Sắc Giới, vì dựa vào giới mà nói không giới. Như chỗ biết rõ của người trí giới không thật có là ba Cõi Dục, Cõi Sắc và Vô Sắc.
Người trí không thủ đắc về ba cõi, vì Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới đều không có nguồn gốc, không có pháp nhất định, chỉ từ các duyên sinh khởi, nên người trí thấy biết vô giới là tam giới, trong đó không có tướng của giới. Tam giới này đều hư vọng hợp với hành điên đảo.
Vì sao?
Vì người trí không chấp nơi tam giới này, không thuyết tam giới hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại. Hiền Thánh thông đạt tam giới này là hư vọng, vô sở hữu, vô tự tánh, xa lìa các pháp, chỉ từ điên đảo khởi lên. Vì dứt trừ điên đảo cho chúng sinh, vì thấy biết về tam giới nên Như Lai phân biệt nói về tướng của tam giới, muốn làm cho chúng sinh biết về nghĩa của không giới nên nói tam giới không phải do tánh tướng mà có. Người trí thấy biết tướng của tam giới là tướng không giới.
Này Bồ Tát Trì Thế! Khi Đại Bồ Tát quán như vậy: Quán tánh chúng sinh, tánh ngã tức là tánh hư vọng, tánh vô sở hữu, tánh vô sinh.
Vì sao?
Vì tánh chúng sinh, tánh ngã, tánh hư vọng không sai, không khác. Các tánh như vậy đều từ hư vọng mà ra, chỉ từ các duyên sinh, nên gọi đó là tánh, trong ấy không có tánh tướng nhất định.
Vì sao?
Vì trong hư không không có một tánh tướng nhất định nào. Các tánh tướng này đều nhập vào hư không, là nghĩa vô sở hữu.
Ví như hư không không có tánh, pháp này hoàn toàn là lìa tướng, là tướng vô sở hữu. Tất cả các pháp cũng xa lìa tánh tướng như vậy. Trong các tánh không có tánh tướng, tánh tướng không ở trong, không ở ngoài, không ở trung gian.
Nơi tánh không có tánh, trong tánh không thâu gồm tánh, trong tánh không nương tựa vào tánh. Tất cả tánh không có chỗ nương tựa, tất cả tánh là không sinh. Người trí ở trong tánh của các pháp không thủ đắc tánh sinh, không thủ đắc tánh diệt, không thủ đắc tánh trụ.
Tất cả các tánh không sinh, không khởi, không trụ, từ xưa đến nay là không thể thủ đắc. Người trí không tham, không vướng nơi các tánh giả danh, không nhận, không niệm, cho nên người trí thông đạt, thấy biết tất cả đều là tướng vô sinh.
Nếu là tướng vô sinh tức là không có diệt, trong Đệ nhất nghĩa, tất cả các tánh đều không thể thủ đắc. Vì pháp thế tục nên phân biệt giảng nói về các tánh, trong Đệ nhất nghĩa không nói các tánh. Người trí thấy biết, thông đạt tất cả các tánh như Đệ nhất nghĩa.
Này Bồ Tát Trì Thế! Các Đại Bồ Tát quán sát, thông đạt về mười tám tánh, tam giới, tánh chúng sinh, tánh ngã, tánh hư không như vậy. Khi các Bồ Tát quán sát, thấu rõ như vậy thì không thủ đắc tánh và chẳng thấy tánh, cũng thông đạt tất cả các tánh là giả danh, cũng tin hiểu các nhập, tất cả tánh là vô tánh, cũng biết phân biệt các tánh. Vì thế tục nên phân biệt giảng nói các tánh, làm cho tất cả các tánh nhập trong Đệ nhất nghĩa.
Cũng khéo thông đạt về phương tiện vô tánh, cũng vì chúng sinh mà phân biệt, giảng thuyết các tánh, cũng khiến cho chúng sinh khéo trụ nơi các phương tiện của tánh. Dùng lời nói thế tục mà thuyết giảng pháp vô tánh cho chúng sinh, cũng không dùng hai tướng để chỉ bày các tánh.
Dù biết tất cả các tánh không phải hai, cũng dùng phương tiện nói các tánh là từ nhân duyên sinh khởi. Tuy dùng lời nói của thế tục để dẫn dắt chúng sinh nhưng cũng chỉ rõ về Đệ nhất nghĩa cho chúng sinh.
Tuy biết phân biệt các tánh nhưng tin hiểu và thông đạt tất cả các tánh là vô sở hữu.
Vì sao?
Này Bồ Tát Trì Thế! Như Lai do Đệ nhất nghĩa nên đối với tánh là không chỗ thủ đắc, cũng không thủ đắc tướng của các tánh.
Này Bồ Tát Trì Thế! Ta đối với các tánh không đoạn, không hoại mà chứng đắc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Vì sao?
Vì trong Đệ nhất nghĩa không có các tánh. Tất cả các tánh là không sở hữu, không nhất định. Tất cả tánh đồng như hư không. Tất cả tánh nhập nơi hư không. Tất cả tánh không có tướng sinh. Như Lai thông đạt tất cả tánh như vậy.
Này Bồ Tát Trì Thế! Như Lai không thuyết các tánh tướng, cũng không nói về thế lực của các pháp.
Vì sao?
Vì nếu pháp không sở hữu thì không nên nói tánh tướng vô sở hữu.
Này Bồ Tát Trì Thế! Như Lai cũng thuyết giảng về tánh tướng vô sở hữu, trong đó thật không chỗ nói về tánh tướng.
Này Bồ Tát Trì Thế! Đó gọi là khéo phân biệt về các tánh. Đại Bồ Tát đạt được sự khéo phân biệt như thế nên có thể biết tất cả các tánh đều giả danh. Có thể biết tướng thế tục, có thể biết tướng Đệ nhất nghĩa, có thể biết các tánh quyết định, có thể biết thế đế, có thể biết phân biệt các tướng, có thể biết tùy nghi, có thể biết các tướng hợp.
Có thể biết các tướng đi về đâu, có thể biết được chỗ đi vào các tướng, có thể phân biệt các tướng, có thể biết rõ các tướng là vô tánh, có thể làm cho tất cả các tánh đồng như tánh hư không. Đối với các tánh cũng không làm sai khác, ở nơi các pháp không thấy sai biệt, không nhận thức và không nói sai biệt, cũng vì chúng sinh nên khéo nói về các tánh hủy hoại.
Này Bồ Tát Trì Thế! Như nhà huyễn thuật biết diễn cho chúng sinh nhiều trò ảo thuật, làm cho chúng sinh biết vô số tướng ảo thuật. Nếu có bạn bè tri thức nói đó là huyễn, là huyễn thật sự, là huyễn hư vọng, chỉ do chúng sinh điên đảo. Nếu người có trí thì biết là huyễn.
Này Bồ Tát Trì Thế! Tánh thế gian như huyễn, các Đại Bồ Tát đi vào trong pháp huyễn này biết tánh thế gian như huyễn, chốn hành của thế gian như huyễn. Người này dùng sức của phương tiện chỉ rõ thế gian của chúng sinh là như huyễn.
Nếu có người biết tướng như thật của thế gian này, thì nói thế gian là hư vọng, như huyễn. Nếu người có trí tuệ, lợi căn sâu xa, không cần chỉ bày, tự mình có thể biết được, biết các pháp như huyễn, là không, không thật, không có nguồn gốc. Biết tất cả pháp đều dối gạt các phàm phu, tất cả pháp đều ràng buộc trong duyên hư vọng.
Này Bồ Tát Trì Thế! Nếu các Đại Bồ Tát muốn vào phương tiện của các tánh như vậy, ở nơi các Kinh Điển sâu xa không nhiễm, không thủ đắc, nói về tất cả tướng tri kiến của các tánh, nói về tất cả các tánh không văn tự, không hòa hợp.
Cũng nói về các tánh nơi trí tuệ phương tiện, cũng nói về các nhân duyên nơi ý nghĩa sâu xa của chỗ tạo tác, cũng nói về tướng như thật của tất cả các pháp, nghĩa là thế gian, xuất thế gian, hữu vi, vô vi, hệ thuộc, không hệ thuộc, khéo biết chỗ hướng đến của phương tiện, nói nghĩa đệ nhất, nghĩa thế tục, Kinh liễu nghĩa, Kinh chưa liễu nghĩa, giải thích vô số nhân duyên, ở trong Kinh Điển thâm diệu này nên siêng năng tinh tấn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Sáu - Phẩm Bốn - Phẩm Pháp Giới - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Năm - Phẩm Cứu Cánh đích Thực Của Bậc Xuất Gia
Phật Thuyết Kinh Lục độ Tập - Chương Một - Bố Thí độ Vô Cực - Kinh Số hai
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Pháp Hành - Phần Ba - Người Trí
Phật Thuyết Kinh Ma Ha Bát Nhã Sao - Phẩm Mười - Phẩm Thủ Không
Phật Thuyết Kinh La Ma Già - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Hai