Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Bảy - Phẩm Trường Thọ Vương - Kinh Trường Thọ Vương Bổn Khởi

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:01 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM BẢY

PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG  

KINH TRƯỜNG THỌ

VƯƠNG BỔN KHỞI  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Đức Phật du hóa tại Câu Xá Di, trong vườn Cù Sư La.

Bấy giờ các Tỳ Kheo ở Câu Xá Di đã nhiều lần cãi vã nhau.

Do đó Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo ở Câu Xá Di rằng: Này các Tỳ Kheo, các ngươi chớ cãi vã nhau.

Vì sao?

Nếu lấy tranh dứt tranh,

Đời nào dứt cho xong.

Nhẫn nhục dứt hận thù,

Đó là pháp tối thượng.

Vì sao?

Này các Tỳ Kheo, thuở xưa có Vua nước Câu Sa La, tên là Trường Thọ. Lại có Vua nước Gia Xá tên là Phạm Ma Đạt Đa. Hai vị Quốc Vương này đã nhiều lần gây chiến với nhau.

Rồi Quốc Vương Phạm Ma Đạt Đa dấy quân với bốn loại quân là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân. Sau khi dấy quân, Vua Phạm Ma Đạt Đa đích thân kéo quân đi muốn gây chiến với Vua Trường Thọ, nước Câu Sa La.

Vua Trường Thọ nước Câu Sa La nghe tin Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá vừa dấy quân với bốn loại quân là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân. Sau khi bổ sung quân số cho bốn loại quân ấy, lại muốn giao chiến với mình, Vua Trường Thọ nước Câu Sa La nghe vậy cũng dấy quân với bốn loại quân là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân.

Sau khi dấy bốn loại quân, Vua Trường Thọ nước Câu Sa La đích thân xuất quân dẫn đến tận biên giới, dàn trận giao chiến, tức thời đánh tan quân đối phương.

Bấy giờ Vua Trường Thọ nước Câu Sa La bắt trọn bốn loại quân của Phạm Ma Đạt Đa là tượng quân, mã quân xa quân và bộ quân, lại bắt sống Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá.

Bắt được liền phóng thích và nói với Phạm Ma Đạt Đa rằng: Ông là nạn nhân cùng đường, nay ta tha cho, sau này chớ gây chiến nữa. Vua Phạm Ma Đạt Đa, nước Gia Xá lại ba lần dấy quân với bốn loại quân là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân. Sau mỗi lần dấy quân với bốn loại quân, lại đích thân dẫn quân qua gây chiến với Vua Trường Thọ, nước Câu Sa La.

Vua Trường Thọ nước Câu Sa La nghe tin Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá vừa dấy quân với bốn loại quân là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân. Sau khi dấy quân, lại kéo đến gây chiến với mình.

Vua Trường Thọ nghe tin như vậy liền nghĩ: Ta đánh bại nó, cần gì đánh bại nữa. Ta đã hàng phục nó, nó đâu đủ sức để hàng phục ta. Ta đã hại nó, cần gì phải hại nữa. Ta chỉ cần với một cây cung không cũng đủ hàng phục nó.

Vua Trường Thọ, nước Câu Sa La nghĩ như thế nên an nhiên không cần dấy quân với bốn loại quân là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân, và tự mình cũng không ra mặt trận.

Bấy giờ, Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá tiến quân đánh phá, bắt trọn bốn loại quân của Vua Trường Thọ nước Câu Sa La là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân.

Vua Trường Thọ nghe tin Phạm Ma Đạt Đa Vua nước Gia Xá đã tiến quân bắt trọn bốn loại quân của mình là tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân, lại nghĩ rằng: Chiến tranh là kỳ quái, chiến tranh là tàn bạo.

Vì sao?

Vì chiến thắng sẽ bị chiến thắng. Chế phục sẽ bị chế phục. Tàn hại sẽ bị tàn hại. Vậy ta nay hãy đơn thân dẫn một người vợ cùng đi một cỗ xe, chạy đến Ba La Nại. Rồi Vua Trường Thọ nước Câu Sa La đơn thân dẫn một người vợ cùng đi trên một cỗ xe, chạy đến Ba La Nại.

Vua Trường Thọ lại nghĩ: Ta nay có lẽ nên từ thôn này qua thôn kia, từ ấp này qua ấp nọ để cầu học rộng nghe nhiều. Nghĩ vậy, Vua Trường Thọ liền từ thôn này qua thôn khác, từ ấp này qua ấp nọ cầu học rộng nghe nhiều. Vì học rộng nghe nhiều nên Vua đổi tên là Trường Thọ Bác Sĩ.

Trường Thọ Bác Sĩ lại nghĩ: Những gì đáng học ta đã học rồi. Ta nên vào đô ấp Ba La Nại, đến ở đường này hẻm kia với vẻ mặt tươi cười, tấu lên âm thanh vi diệu. Như vậy, các nhà hào quý ở Ba La Nại nghe được sẽ vô cùng hoan hỷ và thấy vui thích.

Nghĩ xong, Trường Thọ Bác Sĩ vào đô ấp Ba La Nại, đứng ở đường này hẻm nọ với vẻ mặt tươi cười, tấu lên âm thanh vi diệu nên các nhà hào quý ở Ba La Nại nghe được đều rất hoan hỷ và lấy làm thỏa thích.

Lúc ấy, các quyến thuộc của Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá, từ quyến thuộc ngoài xa đến quyến thuộc ở giữa, rồi đến quyến thuộc bên trong và đến Phạm Chí Quốc Sư, tất cả đều nghe. Khi được nghe, Phạm Chí Quốc Sư cho gọi Trường Thọ Bác Sĩ đến diện kiến.

Bấy giờ Trường Thọ Bác Sĩ đi đến chỗ Phạm Chí Quốc Sư, đứng quay mặt về phía Quốc Sư, với vẻ mặt vui tươi, tấu lên âm thanh vi diệu. Sau khi nghe, Phạm Chí Quốc Sư rất hoan hỷ và lấy làm thỏa thích.

Phạm Chí Quốc Sư nói với Trường Thọ Bác Sĩ: Từ nay ông có thể nương tựa vào ta. Ta sẽ cung cấp cho đầy đủ.

Trường Thọ Bác Sĩ thưa rằng: Thưa Tôn Giả, tôi còn có một người vợ, phải làm thế nào?

Phạm Chí Quốc Sư nói với Bác Sĩ: Bác Sĩ, ông có thể đem đến ở nhà ta. Ta sẽ cung cấp cho đầy đủ. Thế rồi Trường Thọ Bác Sĩ dẫn vợ mình đến trú tại nhà Phạm Chí Quốc Sư. Phạm Chí Quốc Sư liền chu cấp đầy đủ.

Một thời gian sau, vợ của Trường Thọ Bác Sĩ trong lòng rầu rĩ nghĩ rằng: Ước gì có bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng, từ từ đi qua. Ta muốn xem khắp và cũng muốn uống nước mài gươm đao.

Vợ của Trường Thọ Bác Sĩ nghĩ như vậy rồi, liền nói với Trường Thọ Bác Sĩ rằng:

Tôi cảm thấy trong lòng rầu rĩ, đang nghĩ thế này: Ước gì có bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ đi qua. ta muốn xem cùng khắp, lại cũng muốn uống nước mài dao.

Trường Thọ Bác Sĩ nói với vợ rằng: Khanh chớ nghĩ như vậy.

Vì sao?

Chúng ta đã bị Vua Phạm Ma Đạt Đa đánh bại, Khanh nhờ đâu mà thấy được bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ đi qua để khanh xem cùng khắp và khanh lại được uống nước mài dao?

Bà vợ lại nói: Thưa Tôn Quân, nếu được như thế thì tôi còn hy vọng sống. Nếu không, chắc chắn phải chết chớ không có gì nghi ngờ nữa. Trường Thọ Bác Sĩ liền đến chỗ Phạm Chí Quốc Sư, đứng quay mặt về phía Quốc Sư, vẻ mặt sầu thảm, bằng tiếng nói ai oán mà tấu lên các khúc nhạc. Phạm Chí Quốc Sư nghe mà không được hoan hỷ.

Bấy giờ Phạm Chí Quốc Sư hỏi rằng: Này Bác Sĩ, trước kia, ông đứng quay mặt về phía ta, với vẻ mặt vui tươi mà tấu lên âm thanh vi diệu. Nghe xong ta rất hoan hỷ, lấy làm vui thích.

Nay ông vì sao lại đứng quay về phía ta với vẻ mặt sầu thảm, bằng âm thanh ai oán mà tấu lên khúc nhạc, ta nghe không được hoan hỷ.

Này Trường Thọ Bác Sĩ, thân ông không bệnh hoạn, ý ông không sầu não chứ?

Trường Thọ Bác Sĩ thưa: Thưa Tôn Giả, thân tôi không bệnh hoạn nhưng ý tôi sầu não.

Tôn Giả, vợ tôi trong lòng rầu rĩ, đã nghĩ thế này: Ta muốn bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ đi qua. Ta muốn xem cùng khắp, lại cũng muốn uống nước mài dao.

Tôi liền bảo rằng: Khanh chớ nghĩ như thế.

Vì sao?

Ta nay thế này, khanh nhờ đâu mà đượïc bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ đi qua để khanh xem cùng khắp và lại cũng được uống nước mài dao?

Vợ tôi lại nói rằng: Thưa Tôn Quân, nếu được như thế thì tôi còn hy vọng sống. Nếu không thì chắc chắn sẽ chết, không nghi ngờ gì nữa.

Thưa Tôn Giả, nếu vợ tôi mà không toàn mạng thì sao nỡ!

Phạm Chí Quốc Sư bảo rằng: Này Bác Sĩ, vợ ông, ta có thể gặp được không?

Thưa Tôn Giả, có thể được.

Thế rồi Phạm Chí Quốc Sư cùng với Trường Thọ Bác Sĩ đi đến chỗ bà vợ của Bác Sĩ. Bấy giờ vợ của Trường Thọ Bác Sĩ mang thai đứa con có đức.

Phạm Chí Quốc Sư thấy vợ của Trường Thọ Bác Sĩ mang thai đứa con có đức nên quỳ gối bên phải xuống đất, chắp tay hướng về phía vợ của Bác Sĩ khen ba lần rằng: Sẽ sanh Vua nước Câu Sa La. Sẽ sanh Vua nước Câu Sa La. Rồi lại ra lệnh cho tả hữu không ai được phép tiết lộ cho người ngoài biết.

Phạm Chí Quốc Sư nói tiếp: Này Bác Sĩ, ông chớ ưu sầu. Ta sẽ cho vợ ông được thấy bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ đi qua và cũng được uống nước mài dao.

Rồi Phạm Chí Quốc Sư đi đến chỗ Phạm Ma Đạt Đa, Vua nước Gia Xá, thưa rằng: Tâu Thiên Vương, nên biết cho rằng, có vì sao hữu đức xuất hiện. Mong Thiên Vương cho dàn bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ diễn hành và biểu dương quân uy bằng nước mài dao. Mong Thiên Vương đích thân thị sát. Tâu Thiên Vương, nếu làm được như vậy thì chắc chắn có báo ứng tốt.

Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá liền ra lệnh cho tướng quân: Các khanh nên biết, có vì sao hữu đức xuất hiện, các khanh hãy tức khắc dàn bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ diễn hành, biểu dương quân uy bằng nước mài dao. ta sẽ đích thân quan sát. Nếu làm được như vậy thì chắc chắc có báo ứng tốt.

Bấy giờ tướng quân tuân lệnh Vua, dàn bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ diễn hành, biểu dương quân uy bằng nước mài dao.

Vua Phạm Ma Đạt Đa liền đích thân thị sát. Nhờ đó, vợ của Trường Thọ Bác Sĩ thấy được bốn loại quân trận với lớp lớp tấm thuẫn, tuốt gươm sáng loáng từ từ đi qua để biểu dương và cũng được uống nước mài dao.

Sau khi uống nước mài dao, lòng sầu muộn liền tiêu, tiếp đến Hạ Sanh người con có đức, đặt tên tự là Trường Sanh Đồng Tử, gởi cho người khác bí mật nuôi nấng và lần hồi lớn khôn.

Nếu có các vị Vua Sát Lợi Đảnh Sanh chỉnh trị thiên hạ với một quốc độ lớn, có đủ các tài nghệ như cỡi voi, chế ngự, dong xe, chơi bắn cung, đánh bằng tay, ném dây, ném móc câu, dong xe, ngồi kiệu, các thứ tài nghệ tuyệt diệu như thế, Trường Sanh Đồng Tử đều biết đầy đủ.

Với tất cả các loại xảo diệu nào, nếu đụng đến là vượt hẳn mọi người, dũng mãnh và cương nghị hơn đời, thông minh xuất chúng. Bao nhiêu điều bí ẩn sâu xa, không có điều gì là không thông suốt tinh tường.

Lúc ấy, Phạm Ma Đạt Đa nghe tin Trường Thọ Vua nước Câu Sa La đổi tên là Bác Sĩ và đang ở tại Ba La Nại liền ra lệnh cho tả hữu: Các khanh hãy cấp tốc đến bắt Trường Thọ, Vua nước Câu Sa La, trói thúc ké hai tay, bỏ lên lừa chở đi, đánh trống lớn tiếng như tiếng lừa kêu, tuyên bố cho khắp nơi biết rồi dẫn ra khỏi cửa thành hướng Nam, bắt ngồi dưới cây nêu cao mà cật vấn.

Cận Thần tả hữu vâng lệnh, liền đến bắt Trường Thọ, Vua nước Câu Sa La, trói hai tay ra đằng sau, bỏ lên lừa chở đi, đánh trống lớn tiếng như lừa kêu, tuyên bố cho khắp nơi biết rồi dẫn ra cửa thành phía Nam, bắt ngồi dưới cây nêu cao rồi cật vấn.

Lúc ấy, Trường Sanh Đồng Tử đi theo cha, lúc bên tả, lúc bên hữu, thưa với cha rằng: Thiên Vương chớ sợ! Thiên Vương chớ sợ!

Con ở đây, chắc chắn cứu được, chắc chắn cứu được.

Trường Thọ Vua nước Câu Sa La bảo con: Đồng Tử nên nhẫn, Đồng Tử nên nhẫn! Chớ khởi oán kết mà phải thực hành nhân từ.

Mọi người nghe Vua Trường Thọ nói như vậy liền hỏi: Như vậy nhà Vua muốn nói những gì?

Nhà Vua nói: Đồng Tử này thông minh, chắc chắn hiểu lời ta nói.

Thế rồi Trường Sanh Đồng Tử khuyên những người hào quý trong thành Ba La Nại rằng: Chư vị, hãy bố thí tu phước mà chú nguyện cho Vua Trường Thọ nước Câu Sa La. Đem phước thí ấy cầu nguyện cho Vua Trường Thọ nước Câu Sa La được an ổn, giải thoát.

Bấy giờ các nhà hào quý trong thành Ba La Nại, theo lời khuyến khích của Trường Sanh Đồng Tử, bố thí, tu phước, chú nguyện cho Vua Trường Thọ nước Câu Sa La, đem phước thí ấy cầu nguyện cho Vua Trường Thọ an ổn giải thoát.

Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá nghe các nhà hào quý trong thành Ba La Nại này bố thí, tu phước, Chú Nguyện cho Vua Trường Thọ nước Câu Sa La, đem phước thí ấy cầu nguyện cho Vua Trường Thọ được an ổn, giải thoát thì vô cùng sợ hãi, tóc lông dựng đứng, nghĩ rằng: Mong những nhà hào quý trong thành Ba La Nại này không phản lại ta chăng?

Nhưng hãy gác lại việc kia, nay ta trước hết phải cấp tốc tiêu diệt sự việc này.

Rồi Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá hạ lệnh cho tả hữu: Các khanh hãy cấp tốc đi giết Vua Trường Thọ nước Câu Sa La, chặt ra làm bảy đoạn.

Cận Thần tả hữu vâng lệnh, liền đi giết Vua Trường Thọ, chặt thành bảy đoạn.

Bấy giờ Trường Sanh Đồng Tử nói với các nhà hào quý trong thành Ba La Nại rằng: Các vị xem đấy, Vua nước Gia Xá Phạm Ma Đạt Đa tàn ác vô đạo. Nó chặt cha ta, Vua Trường Thọ nước Câu Sa La là người vô tội. Nó cướp đoạt kho tàng, tài sản của nước ta. Vì thù hận cay độc mà giết người, chặt thành bảy đoạn một cách oan uổng.

Các vị nên đến dùng lụa mới, quấn nhiều lớp, bọc kín thi hài bảy đoạn, liệm cho cha ta. Dùng tất cả các cây hương thơm chất đống để hỏa táng và lập miếu đường để thờ.

Phải vì cha ta mà gởi thơ cho Phạm Ma Đạt Đa, nói rằng, Trường Sanh Đồng Tử con Vua nước Câu Sa La báo cho Vua biết, ngươi không sợ sau này con cháu gieo họa cho chăng?

Rồi thì những nhà hào quý ở thành Ba La Nại theo lời khuyên của Trường Sanh Đồng Tử, dùng lụa mới xếp nhiều lớp liệm lấy thi hài bảy đoạn ấy, dùng các loại hương thơm chất đống hỏa táng rồi lập miếu mà thờ, và cũng viết thư gửi cho Phạm Ma Đạt Đa, nói rằng: Trường Sanh Đồng Tử, con Vua nước Câu Sa La bảo rằng, ngươi không sợ sau này bị con cháu gieo họa cho chăng?

Bấy giờ vợ của Vua Trường Thọ nói với Trường Sanh Đồng Tử: Con nên biết, Vua nước Gia Xá là Phạm Ma Đạt Đa, là kẻ tàn bạo, vô đạo, bắt cha con là Vua Trường Thọ nước Câu Sa La là người vô tội, cướp đoạt kho tàng, tài sản của nước con, lại vì thù hận cay độc giết người, chặt ra bảy đoạn một cách oan uổng.

Này Đồng Tử, con hãy đến đây cùng ta, dong một chiếc xe chạy ra khỏi Ba La Nại này. Nếu không đi thì tai họa sẽ đến với con. Thế rồi vợ của Trường Thọ cùng với Đồng Tử cùng dong một chiếc xe chạy ra khỏi Ba La Nại.

Bấy giờ Trường Sanh Đồng Tử nghĩ rằng: Ta nên đến thôn này, qua thôn kia để cầu học rộng nghe nhiều. Nghĩ xong, Trường Sanh Đồng Tử liền đi từ thôn này qua thôn nọ để cầu học rộng nghe nhiều. Vì học rộng nghe nhiều, nên đổi tên khác là Trường Sanh Bác Sĩ.

Trường Sanh Bác Sĩ lại nghĩ: Điều cầu học ta đã học xong, có lẽ ta nên vào đô ấp Ba La Nại, đứng ở đường này hẻm nọ với vẻ mặt tươi cười, tấu lên âm thanh vi diệu. Như vậy các nhà hào quý ở Ba La Nại nghe được sẽ hoan hỷ và cảm thấy vui thích.

Nghĩ vậy, Trường Sanh Bác Sĩ liền vào đô ấp Ba La Nại đứng ở đường này hẻm nọ với vẻ mặt vui tươi, tấu lên âm thanh vi diệu. Các nhà hào quý ở Ba La Nại nghe được, hoan hỷ vô cùng và cảm thấy vui thích.

Bấy giờ các quyến thuộc của Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá, từ quyến thuộc ngoài xa đến quyến thuộc khoảng giữa và quyến thuộc bên trong, Phạm Chí Quốc Sư, lần hồi thấu đến tai Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá. Sau khi nghe đến, Vua liền gọi vào diện kiến.

Thế rồi Trường Sanh Bác Sĩ đi đến chỗ Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá, đứng quay về phía nhà Vua với vẻ mặt tươi cười, tấu lên bằng âm thanh vi diệu.

Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá nghe như thế hoan hỷ vô cùng, lấy làm vui thích, rồi Vua Phạm Ma Đạt Đa nói với Bác Sĩ rằng: Khanh từ nay có thể nương tựa vào ta. Ta sẽ cung cấp cho đầy đủ. Khi ấy, Trường Sanh Bác Sĩ nương tựa vào nhà Vua và được cung cấp đầy đủ. Về sau nhà Vua lại hết lòng tín nhiệm, giao phó công việc, đem kiếm hộ thân trao cho Trường Sanh Bác Sĩ.

Bấy giờ Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá bảo người đánh xe: Ngươi hãy sửa soạn xa giá. Ta muốn đi săn bắn.

Người đánh xe vâng lời, sửa soạn xa giá xong, trở lại tâu rằng: Con đã sửa soạn xa giá xong, xin theo ý Thiên Vương. Thế rồi Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá và Trường Sanh Bác Sĩ cùng ngồi vào cỗ xe ra đi.

Trường Sanh Bác Sĩ nghĩ rằng: Phạm Ma Đạt Đa Vua nước Gia Xá tàn bạo, vô đạo. Nó bắt cha ta là Vua Trường Thọ nước Câu Sa La là người vô tội, lại cướp đoạt kho tàng, tài sản của ta, và vì thù hận cay độc mà giết người, chặt ra bảy đoạn một cách oan uổng. Ta nay nên đánh xe tách ra khỏi bốn loại quân, đi đến một nơi khác.

Bấy giờ Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá vì vất vả trải qua con đường lầy lội, gió nóng bức bách nên cảm thấy khát nước, mệt nhọc quá đổi, muốn nằm, liền xuống xe, gối vào đầu gối của Trường Sanh Bác Sĩ mà ngủ.

Trường Sanh Bác Sĩ nghĩ rằng: Phạm Ma Đạt Đa Vua nước Gia Xá này vô đạo, tàn bạo. Nó bắt cha ta là Vua Trường Thọ nước Câu Sa La là người vô tội, lại cướp đoạt kho tàng, tài sản của nước ta và vì thù hận cay độc mà giết người chặt ra bảy đoạn một cách oan uổng. Thế mà ngày nay nó đã nằm trong tay ta, ta phải báo oán.

trường Sanh Bác Sĩ nghĩ như vậy, liền tuốt gươm báu, dí vào cổ Phạm Ma Đạt Đa Vua nước Gia Xá mà nói rằng: Nay ta giết ngươi! Nay ta giết ngươi!

Trường Sanh Bác Sĩ lại nghĩ: Ta không làm đúng.

Vì sao?

Nhớ lại ngày trước, ngồi dưới cây nêu cao, vào phút sắp lâm chung, cha ta đã bảo ta rằng: Đồng Tử hãy nhẫn, Đồng Tử hãy nhẫn. Chớ khởi oán kết mà phải thực hành nhân từ. Nhớ lại như vậy, Bác Sĩ bèn thu gươm, tra vào vỏ.

Trong lúc đó, Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá mộng thấy Trường Sanh Đồng Tử, con Vua Trường Thọ nước Câu Sa La tay cầm gươm bén dí vào cổ mình mà nói rằng: Nay ta giết ngươi! Nay ta giết ngươi.

Thấy vậy, Vua sợ hãi, tóc lông dựng đứng, liền kinh hoàng chợt tỉnh, nói với Trường Sanh Bác Sĩ:

Ngươi nay nên biết, ta ở trong mộng, thấy Trường Sanh Đồng Tử, con Vua Trường Thọ nước Câu Sa La tay cầm kiếm bén dí vào cổ ta, nói rằng: Nay ta giết ngươi! Nay ta giết ngươi!

Nghe xong, Trường Sanh Đồng Tử thưa rằng: Thiên Vương chớ sợ. Thiên Vương chớ sợ.

Vì sao?

Trường Sanh Đồng Tử, con Vua Trường Thọ nước Câu Sa La chính là thần đây.

Thiên Vương, thần nghĩ rằng: Phạm Ma Đạt Đa, Vua nước Gia Xá tàn bạo, vô đạo, bắt cha ta, một người vô tội, lại cướp đoạt kho tàng, tài sản của nước ta, và vì thù hận cay độc mà giết cha ta, chặt người ra làm bảy đoạn một cách oan uổng, mà nay chính nó đã nằm trong tay ta, ta nghĩ phải báo oán.

Tâu Thiên Vương, thần liền rút gươm dí vào cổ Thiên Vương mà nói rằng: Nay ta giết ngươi! Nay ta giết ngươi! Thiên Vương, thần lại nghĩ: Ta làm không đúng.

Vì sao?

Nhớ ngày trước, ngồi dưới cây nêu cao, vào phút sắp lâm chung, cha ta đã bảo rằng: Đồng Tử hãy nhẫn, Đồng Tử hãy nhẫn! Chớ khởi oán kết mà phải thực hành nhân từ. Nhớ lại như vậy nên thần thu gươm tra vào vỏ.

Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá nói rằng:

Này Đồng Tử, khanh nói rằng: Đồng Tử hãy nhẫn, Đồng Tử hãy nhẫn, ta đã rõ nghĩa ấy.

Nhưng Đồng Tử lại nói: Chớ khởi oán kết, mà phải thực hành nhân từ, là nghĩa thế nào?

Trường Sanh Đồng Tử đáp: Tâu Thiên Vương, chớ khởi oán kết mà phải thực hành nhân từ, chính là việc làm này vậy.

Nghe xong, Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá nói rằng: Này Đồng Tử, từ ngày hôm nay ta đem đất nước mà ta đang chỉnh lãnh trao hết cho khanh.

Vì sao?

Vì khanh đã làm một việc quá khó là đã ban ân huệ cho mạng sống của ta.

Trường Sanh Đồng Tử nghe vậy liền thưa: Bổn quốc của Thiên Vương thì thuộc về Thiên Vương. Bổn Quốc của thân phụ hạ thần thì mới có thể giao hoàn lại cho hạ thần.

Bấy giờ, Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá cùng với Trường Sanh Đồng Tử lên xe trở về, vào thành Ba La Nại, ngồi trên chánh điện, Vua bảo các Cận Thần: Này các khanh, nếu bắt gặp Trường Sanh Đồng Tử, con Vua Trường Thọ nước Câu Sa La thì các khanh sẽ xử sự như thế nào?

Cận Thần nghe vậy, có người tâu rằng: Tâu Thiên Vương, nếu bắt gặp nó thì sẽ chặt tay.

Có người lại tâu: Tâu Thiên Vương, nếu bắt gặp nó thì chặt chân.

Có người tâu: Tâu Thiên Vương, nếu bắt gặp nó thì giết.

Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá nói rằng: Các khanh, muốn gặp Trường Sanh Đồng Tử, con Vua Trường Thọ nước Câu Sa La thì ở đây này. Các khanh chớ khởi ác ý với Đồng Tử này.

Vì sao?

Vì Đồng Tử đã làm một việc rất khó là đã tha mạng sống cho ta. Thế rồi Vua Phạm Ma Đạt Đa nước Gia Xá dùng nước tắm của Vua tắm gội cho Trường Sanh Đồng Tử, cho thoa bằng bột hương của Vua, cho mặc y phục của Vua, mời ngồi lên ngự sàng bằng vàng, đích thân Vua Phạm Ma Đạt Đa và vợ con trở về bổn quốc.

Này Tỳ Kheo, các Quốc Vương Sát Lợi Đảnh Sanh ấy làm chủ đại quốc, chỉnh trị thiên hạ mà tự thực hành hạnh nhẫn nhục. Tự thực hành từ tâm, lại xưng tán từ tâm. Tự ban ân huệ, lại xưng tán ân huệ.

Này chư Tỳ Kheo, các Tỳ Kheo cũng nên làm như vậy, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo.

Nên thực hành hạnh nhẫn nhục, lại xưng tán nhẫn nhục. Tự thực hành từ tâm, lại xưng tán từ tâm. Tự ban ân huệ, lại xưng tán ân huệ.

Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Đức Phật thuyết như vậy, có vị bạch rằng: Thế Tôn là Pháp Chủ. Nay mong Thế Tôn cứ ở yên vậy. Vị ấy nói hành con, con làm sao không nói hành vị ấy được. Lúc đó, Đức Thế Tôn không vui vì việc làm của các Tỳ Kheo Câu Xá Di, với những oai nghi, lễ tiết mà họ đã học, đã tập.

Ngài  từ chỗ ngồi đứng dậy, nói bài kệ tụng:

Với bao nhiêu lời nói,

Phá hoại chúng tối tôn.

Khi phá hoại Thánh Chúng,

Không ai can dứt nổi.

Nát thân và mất mạng,

Kẻ cướp đoạt ngựa trâu,

Tài sản, và quốc gia,

Họ còn hay hòa thuận.

Huống ngươi vài tiếng cãi

Sao không chịu thuận hòa?

Không suy chân nghĩa xa,

Oán kết làm sao giải?

Mạ Lỵ, trách nhau mãi

Mà biết chế, thuận hòa.

Nếu suy chân nghĩa xa

Oán kết tất giải được.

Thù hận dứt hận thù,

Đời nào dứt cho xong.

Nhẫn nhục dứt hận thù,

Đó là pháp tối thượng.

Sân với bậc thượng trí,

Nói toàn lời vô lại,

Phỉ báng Thánh Mâu Ni,

Thấp hèn không chút tuệ.

Người khác không rõ nghĩa,

Riêng ta biết mà thôi.

Người rõ nghĩa là ai?

Người này dứt sân nhuế.

Ai đắc định làm bạn,

Kẻ trí, thiện cùng tu.

Xả ý chấp xưa kia

Hoan hỷ thường theo đến.

Không đắc định làm bạn,

Kẻ trí thiện riêng tu.

Như Vua nghiêm trị nước.

Như voi lẻ rừng vắng.

Độc hành, chớ làm ác,

Như voi lẻ rừng vắng.

Độc hành trên nẻo cao,

Đừng hội kẻ vô đức.

Học: Không gặp bạn tốt,

Không cùng ai ngang mình.

Hãy cô độc chuyên tinh

Đừng hội kẻ vô đức.

Lúc Đức Thế Tôn thuyết bài tụng này xong, Ngài dùng như ý túc cỡi hư không mà đi đến thôn Bà La Lâu La. Ở thôn Bà La Lâu La có Tôn Giả Bà Cửu Thích Gia Tử, ngày đêm không ngủ, tinh cần hành đạo, chí thành thường định tĩnh, an trú trong đạo phẩm.

Tôn Giả Thích Gia Tử từ xa trông thấy Đức Thế Tôn đi đến, khi đã trông thấy liền nghinh tiếp, đỡ lấy y bát của Ngài, trải giường, múc nước rửa chân.

Đức Phật rửa chân xong, Ngài  lên chỗ ngồi của Thích Gia Tử Bà Cửu.

Ngồi xong, Ngài nói: Tỳ Kheo Bà Cửu, ngươi thường an ổn, không hề thiếu thốn chăng?

Tôn Giả Bà Cửu trả lời: Bạch Thế Tôn, con thường an ổn, không có thiếu thốn.

Đức Thế Tôn lại hỏi: Thế nào là an ổn, không có thiếu thốn?

Tôn Giả Bà Cửu đáp: Bạch Thế Tôn, con ngày đêm không ngủ, tinh tấn hành đạo, chí hành thường định tĩnh, an ổn vào đạo phẩm.

Bạch Thế Tôn, như vậy con thường an ổn, không có thiếu thốn.

Đức Thế Tôn lại nghĩ: Thiện nam tử này sống cuộc đời an lạc. Ta nên thuyết pháp cho y. Nghĩ vậy, Ngài liền thuyết pháp cho Tôn Giả Bà Cửu, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ.

Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ cho vị ấy, Ngài  từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến rừng Hộ Tự.

Vào rừng Hộ Tự, đến dưới gốc cây Ngài trải Ni Sư Đàn ngồi kiết già.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nghĩ rằng: Ta đã thoát được nhóm Tỳ Kheo ở Câu Xá Di, một nhóm luôn luôn tranh chấp nhau, chèn ép nhau, thù nghịch nhau, giận hờn nhau, cãi vã nhau. ta không hoan hỷ nghĩ đến phương ấy, nơi mà nhóm Tỳ Kheo Câu Xá Di đang trú.

Ngay lúc đó có một con voi, chúa của đàn voi, tách rời đàn, du hành một mình, cũng đến rừng Hộ Tự. Vào rừng Hộ Tự, đến đứng dưới cây Hiền Sa La.

Khi ấy, voi chúa nghĩ rằng: Ta đã thoát được bọn voi kia, voi cha, voi mẹ, voi con lớn nhỏ. Bọn voi ấy thường đi trước dẫm lên cỏ và làm vấy bẩn nước. Ta bấy giờ ăn cỏ bị dẫm đạp ấy, uống nước vẫn đục kia. Ta nay ăn cỏ mới, uống nước trong.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bằng tha tâm trí biết ý nghĩ trong lòng voi lớn kia, liền nói bài tụng:

Một voi với đàn voi,

Cũng vóc, ngà, chân đủ.

Tâm này như tâm kia,

Rừng sâu vui độc trú.

Khi ấy, Đức Thế Tôn từ rừng Hộ Tự mang y cầm bát đi đến rừng Ban Na Mạn Xà Tự.

Bấy giờ có ba thiện nam tử trú trong rừng Ban Na Mạn Xà Tự, là: Tôn Giả A Na Luật Đà, Tôn Giả Nan Đề, Tôn Giả Kim Tì La.

Các Tôn Giả ấy sống như vậy: Nếu ai khất thực trở về trước, thì trải giường, múc nước để rửa chân, để sẵn chậu, đặt sẵn đòn rửa chân và khăn lau chân, lu nước uống. Nếu những gì khất thực có thể dùng hết thì dùng hết, nếu còn dư thì đổ vào hủ đậy kín cất.

Ăn xong, dọn bát, cất, rửa tay chân, lấy Ni sư đàn vắt lên vai, vào thất tĩnh tọa. Ai khất thực về sau, nếu dùng hết thì dùng, nếu thiếu thì lấy đồ ăn khất thực được của người trước dùng cho đủ.

Nếu dư thì đổ vào đất sạch hay nước không có trùng, rồi đem bình bát rửa sạch, lau khô và cất vào một góc, thu dọn giường chiếu, dẹp đòn rửa chân và lu nước uống, ghè nước rửa tay và quét dọn nhà ăn. Sau khi tẩy sạch những nhơ nhớp ấy thì thu xếp y bát, rửa tay chân, lấy Ni Sư Đàn vắt lên vai, vào thất tĩnh tọa.

Đến lúc xế, các Tôn Giả ấy, nếu có vị nào từ chỗ tĩnh tọa dậy trước, thấy lu nước uống và ghè nước rửa tay trống rỗng, không có nước, thì mang đi lấy.

Nếu xách về nổi thì xách đến để một góc, nếu xách không nổi thì lấy tay vẫy một Tỳ Kheo nữa, mỗi người khiêng một bên, không ai nói chuyện với nhau. Các Tôn Giả ấy cứ năm ngày tụ tập lại một lần, cùng nhau bàn về pháp và im lặng theo pháp bậc Thánh.

Bấy giờ, người giữ rừng trông thấy Đức Thế Tôn từ xa đi đến, bèn đón và quở ngăn rằng: Sa Môn! Sa Môn chớ vào rừng này.

Vì sao?

Nay trong rừng này có ba thiện nam tử, đó là Tôn Giả A Na Luật Đà, Tôn Giả Nan Đề và Tôn Giả Kim Tì La. Các vị ấy trông thấy Sa Môn, chắc họ không vừa ý.

Đức Thế Tôn bảo rằng: Này người giữ rừng, các vị kia nếu thấy Ta, chắc chắn không có gì không vừa ý.

Ngay lúc đó, Tôn Giả A Na Luật Đà, từ xa trông thấy Đức Thế Tôn đi đến, liền quở trách người kia: Này người giữ rừng, chớ ngăn cản Đức Thế Tôn. Này người giữ rừng, chớ ngăn cản Đức Thiện Thệ đang đi đến.

Vì sao?

Vì đó là Tôn Sư của tôi đến! Là Đức Thiện Thệ của tôi đến!

Tôn Giả A Na Luật Đà ra nghênh đón Đức Thế Tôn, đỡ y bát của Ngài. Tôn Giả Nan Đề trải giường cho Đức Phật. Tôn Giả Kim Tì La lấy nước cho Ngài. Khi ấy, Đức Thế Tôn sau khi rửa chân xong, ngồi lên chỗ mà Tôn Giả ấy đã trải.

Ngồi xong, Ngài hỏi: Này A Na Luật Đà, ngươi thường an ổn, không có gì thiếu thốn chăng?

Tôn Giả A Na Luật Đà đáp: Bạch Thế Tôn, con thường an ổn, không có gì thiếu thốn.

Đức Thế Tôn lại hỏi: Như thế nào là an ổn, không có gì thiếu thốn?

Tôn Giả A Na Luật Đà đáp: Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng, con có thiện lợi, có đại công đức, nghĩa là con được cùng tu hành với các vị đồng phạm hạnh như thế.

Bạch Thế Tôn, con thường hướng về các vị đồng phạm hạnh ấy, thực hành hạnh từ nơi thân nghiệp, trước mặt hay vắng mặt đều như nhau. Thực hành hạnh từ nơi khẩu nghiệp, hạnh từ nơi ý nghiệp, trước mặt hay vắng mặt đều như nhau không khác.

Bạch Thế Tôn, con nay có thể tự nghĩ rằng: Tự xả bỏ tâm con, tùy thuận tâm Chư Hiền.

Bạch Thế Tôn, con liền xả bỏ tâm con, tùy thuận tâm Chư Hiền.

Bạch Thế Tôn, con chưa từng có một điều nào là không vừa lòng.

Bạch Thế Tôn, con thường an ổn, không có gì thiếu thốn là như thế.

Đức Thế Tôn hỏi Tôn Giả Nan Đề, Tôn Giả cũng đáp như thế.

Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn Giả Kim Tì La: Ngươi thường an ổn, không có gì thiếu thốn chăng?

Tôn Giả Kim Tì La đáp: Bạch Thế Tôn, con thường an ổn, không có gì thiếu thốn.

Đức Thế Tôn lại hỏi: Này Kim Tì La, thế nào là thường an ổn, không có gì thiếu thốn?

Tôn Giả Kim Tì La đáp: Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng, con có thiện lợi, có đại công đức, nghĩa là con được cùng tu hành với các vị đồng phạm hạnh như thế.

Bạch Thế Tôn, con thường hướng về các vị đồng phạm hạnh ấy, thực hành hạnh từ nơi thân nghiệp, trước mặt hay vắng mặt đều như nhau. Thực hành hạnh từ nơi khẩu nghiệp, hạnh từ nơi ý nghiệp, trước mặt hay vắng mặt đều như nhau không khác.

Bạch Thế Tôn, con nay có thể tự nghĩ rằng: Tự xả bỏ tâm con, tùy thuận tâm Chư Hiền.

Bạch Thế Tôn, con liền xả bỏ tâm con, tùy thuận tâm Chư Hiền.

Bạch Thế Tôn, con chưa từng có một điều nào là không vừa lòng.

Bạch Thế Tôn, con thường an ổn, không có gì thiếu thốn là như thế.

Đức Thế Tôn tán thán: Lành thay! Lành thay! A Na Luật Đà, như thế các ngươi thường cùng nhau hòa hợp, an lạc, không tranh, cùng hiệp nhất trong một tâm, một thầy, như nước với sữa, và có chứng đắc pháp Thượng Nhân mà sống an lạc thoải mái chăng?

Tôn Giả A Na Luật Đà bạch rằng: Bạch Thế Tôn, chúng con cùng nhau hòa hợp không tranh, cùng hợp nhất trong một tâm, chung một thầy, như nước với sữa, và có chứng đắc Pháp Thượng Nhân mà sống an lạc thoải mái.

Bạch Thế Tôn, chúng con nhận được ánh sáng liền thấy sắc. Giây lát, sắc được thấy kia và ánh sáng liền biến mất.

Đức Thế Tôn nói: Này A Na Luật Đà, các ngươi không thấu triệt được tướng ấy. Nghĩa là tướng nhận được ánh sáng mà thấy sắc. Giây lát, sắc được thấy kia và ánh sáng liền biến mất.

Này A Na Luật Đà, thuở xưa lúc ta chưa đắc đạo giác ngộ vô thượng chánh chân, cũng nhận được ánh sáng mà thấy sắc. Giây lát, sắc được thấy kia và ánh sáng liền biến mất.

A Na Luật Đà, ta nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta hành tinh tấn, không biếng nhác, thân tĩnh chỉ an trú, có chánh niệm chánh trí, không có ngu si, được tĩnh chỉ nhất tâm.

Này A Na Luật Đà, ta nghĩ rằng: Ta hành tinh tấn, không biếng nhác, tĩnh chỉ nơi thân, có chánh niệm chánh trí, an trú, không có si, được định tĩnh nhất tâm.

Phải chăng trong đời không có gì để ta thấy, để ta biết chăng?

Trong tâm ta sanh tai hoạn về hoài nghi ấy. Nhân tai hoạn của hoài nghi ấy nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc. Giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, nay ta nên nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn của hoài nghi. A Na Luật Đà, vì ta muốn không sanh tai hoạn này nên sống cô độc viễn ly, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được ánh sáng mà thấy sắc. Giây lát, sắc dược thấy kia và ánh sáng liền biến mất.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về vô niệm. Nhân tai hoạn của vô niệm này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, cũng không sanh tai hoạn về vô niệm. A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn.

Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng. Nhân tai hoạn của thân bệnh tưởng này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, cũng không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng. A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn.

Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về thụy miên. Nhân tai hoạn của thụy miên này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, cũng không sanh tai hoạn về thụy miên.

A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn.

Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về tinh cần thái quá. Nhân tai hoạn của tinh cần thái quá này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt. A Na Luật Đà, cũng như lực sĩ bắt con ruồi quá ngặt, con ruồi liền chết.

Cũng vậy, A Na Luật Đà, trong tâm ta sanh tai hoạn về tinh cần thái quá. Nhân tai hoạn của tinh cần thái quá này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên, cũng không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá.

A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về giải đãi thái quá. Nhân tai hoạn của giải đãi thái quá này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, cũng như lực sĩ bắt con ruồi quá hoãn, con ruồi bèn bay mất.

Cũng vậy, A Na Luật Đà, trong tâm ta sanh tai hoạn về giải đãi thái quá. Nhân tai hoạn của giải đãi thái quá này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên, không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá, cũng không sanh tai hoạn về giải đãi thái quá.

A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về sợ hãi. Nhân tai hoạn của sợ hãi này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt. A Na Luật Đà, cũng như một người đang đi đường, kẻ thù từ bốn phía kéo đến.

Người kia thấy vậy, kinh khủng sợ hãi, toàn thân lông tóc dựng đứng. Cũng vậy, A Na Luật Đà, trong tâm ta sanh tai hoạn về sợ hãi. Nhân tai hoạn của sợ hãi này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên, không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá, không sanh tai hoạn về giải đãi thái quá, cũng không sanh tai hoạn về sợ hãi.

A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về hỷ duyệt. Nhân tai hoạn của hỷ duyệt này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt. A Na Luật Đà, cũng như người đi tìm một kho báu.

Bỗng nhiên được cả bốn kho báu. Thấy như vậy rồi, người ấy sanh hỷ duyệt. Cũng vậy, A Na Luật Đà, trong tâm ta sanh tai hoạn về hỷ duyệt. Nhân tai hoạn của hỷ duyệt này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên, không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá, không sanh tai hoạn về giải đãi thái quá, không sanh tai hoạn về sợ hãi, cũng không sanh tai hoạn về hỷ duyệt.

A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn.

Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về tâm tự cao. Nhân tai hoạn của tâm tự cao này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên, không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá, không sanh tai hoạn về giải đãi thái quá, không sanh tai hoạn về sợ hãi, không sanh tai hoạn về hỷ duyệt, cũng không sanh tai hoạn về tâm tự cao.

A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về đa dạng tưởng. Nhân tai hoạn của đa dạng tưởng này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên, không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá, không sanh tai hoạn về giải đãi thái quá, không sanh tai hoạn về sợ hãi.

Không sanh tai hoạn về hỷ duyệt, không sanh tai hoạn về tâm tự cao, cũng không sanh tai hoạn về đa dạng tưởng.

A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn.

Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta có tai hoạn nào khiến cho ta mất định mà con mắt diệt.

Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ: Trong tâm ta sanh tai hoạn về không quán sắc. Nhân tai hoạn của không quán sắc này nên mất định mà con mắt diệt. Con mắt diệt rồi thì ánh sáng mà ta nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

A Na Luật Đà, ta nay cần phải nghĩ rằng: Trong tâm ta không sanh tai hoạn về hoài nghi, không sanh tai hoạn về vô niệm, không sanh tai hoạn về thân bệnh tưởng, không sanh tai hoạn về thụy miên, không sanh tai hoạn về tinh cần thái quá.

Không sanh tai hoạn về giải đãi thái quá, không sanh tai hoạn về sợ hãi, cũng không sanh tai hoạn về hỷ duyệt, cũng không sanh tai hoạn về tâm tự cao, cũng không sanh tai hoạn về đa dạng tưởng, cũng không sanh tai hoạn về không quán sắc.

A Na Luật Đà, ta muốn không móng khởi tai hoạn này nên sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn.

Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn nên nhận được để thấy sắc, giây lát sắc được thấy sắc và ánh sáng ấy liền diệt.

Này A Na Luật Đà, nếu tâm ta sanh tai hoạn về nghi, đối với tai hoạn đó, tâm được thanh tịnh. Nếu sanh tai hoạn về vô niệm, về bệnh tưởng của thân, về thụy miên, về tinh cần thái quá, giải đãi thái quá, về sợ hãi, về hỷ duyệt, về tâm tự cao, về đa dạng tưởng, về tâm không quán sắc, đối với những tai hoạn đó, tâm được thanh tịnh.

Này A Na Luật Đà, ta lại nghĩ rằng: Ta phải tu học về ba định, là tu học về định có giác có quán, tu học về định không giác ít quán, tu học về định không giác không quán.

A Na Luật Đà, ta liền tu học ba định ấy, là tu học về định có giác có quán, tu học về định không giác ít quán, tu học về định không giác không quán.

Nếu ta tu học về định có giác có quán thì tâm liền thuận hướng đến định không giác ít quán, như vậy ta chắc chắn không mất trí và kiến này.

Như vậy, khi ta đã biết như thế rồi, suốt ngày suốt đêm, rồi suốt đêm suốt ngày, ta tu học về định có giác có quán.

A Na Luật Đà, ta lúc bấy giờ thực hành trụ chỉ này. Nếu ta tu học về định có giác có quán, tâm liền thuận hướng đến định không giác không quán. Như vậy, chắc chắn ta không mất trí và kiến này.

Này A Na Luật Đà, như vậy, ta đã biết như thế rồi nên suốt ngày suốt đêm, rồi suốt đêm suốt ngày, tu học về định có giác có quán. Này A Na Luật Đà, bấy giờ ta thực hành an trú tĩnh chỉ này.

Này A Na Luật Đà, nếu ta tu học về định không giác ít quán, tâm liền thuận hướng định có giác có quán. Như vậy, ta chắc chắn không mất trí kiến này.

Này A Na Luật Đà, ta biết như thế rồi, nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm tu học về định không giác ít quán. Này A Na Luật Đà, ta bấy giờ thực hành hạnh tĩnh chỉ này. Nếu ta tu học về định không giác ít quán, tâm liền thuận hướng đến định không giác, không quán. Như thế, ta chắc chắn không mất trí và kiến này.

Này A Na Luật Đà, do đó ta biết như thế rồi nên suốt ngày suốt đêm tu học về định không giác ít quán.

Này A Na Luật Đà, bấy giờ ta thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.

Này A Na Luật Đà, nếu ta tu học về định không giác không quán, tâm liền thuận hướng đến định có giác có quán. Như thế, ta chắc chắn không mất trí kiến này. Do ta đã biết như thế, nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm tu học về định không giác không quán.

Này A Na Luật Đà, ta bấy giờ thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này. Này A Na Luật Đà, nếu ta tu học về định không giác không quán thì tâm liền thuận hướng đến định không giác ít quán. Như thế, ta không mất trí và kiến này.

Này A Na Luật Đà, do ta đã biết như thế rồi nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm tu học về định không giác không quán. Này A Na Luật Đà, ta bấy giờ thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.

Này A Na Luật Đà, có lúc ta biết ánh sáng mà không thấy sắc.

A Na Luật Đà, ta nghĩ rằng: Do nhân nào, do duyên nào ta biết ánh sáng mà không thấy sắc?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ rằng: Nếu ta niệm tướng của ánh sáng, không niệm tướng của sắc thì bấy giờ ta biết ánh sáng mà không thấy sắc. Như vậy, ta biết như thế rồi nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm biết ánh sáng mà không thấy sắc.

Này A Na Luật Đà, ta bấy giờ thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.

Này A Na Luật Đà, có lúc ta thấy sắc mà không biết ánh sáng.

A Na Luật Đà, ta nghĩ rằng: Do nhân nào, do duyên nào ta thấy sắc mà không biết ánh sáng?

A Na Luật Đà, ta lại nghĩ rằng: Nếu ta niệm tướng của sắc mà không niệm tướng của ánh sáng thì bấy giờ ta biết sắc mà không biết ánh sáng. Này A Na Luật Đà, ta biết như thế rồi nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm ta biết sắc mà không biết ánh sáng. Này A Na Luật Đà, bấy giờ ta thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.

Này A Na Luật Đà, có lúc ta biết một phần ánh sáng ít, cũng thấy một phần sắc.

A Na Luật Đà, ta liền nghĩ: Do nhân nào, do duyên nào ta biết được một phần ánh sáng, cũng thấy một phần sắc?

Ta lại nghĩ: Nếu ta nhập định một phần ít. Ta nhập định một phần nên nhãn căn thanh tịnh một phần ít. Vì nhãn căn thanh tịnh một phần ít nên ta biết ánh sáng một phần, cũng thấy sắc một phần ít. A Na Luật Đà, ta biết như thế rồi nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm, biết ánh sáng một phần ít và thấy sắc một phần ít. Này A Na Luật Đà, bấy giờ ta thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.

Này A Na Luật Đà, có lúc ta biết ánh sáng rộng rãi, cũng thấy sắc rộng rãi.

A Na Luật Đà, ta nghĩ rằng: Do duyên nào, do nhân nào ta biết ánh sáng rộng rãi, cũng thấy ánh sáng rộng rãi.

Ta lại nghĩ: Nếu ta nhập định rộng rãi, nhờ nhập định rộng rãi nên nhãn căn thanh tịnh rộng rãi. Nhờ nhãn căn thanh tịnh rộng rãi nên ta biết ánh sáng rộng rãi, cũng thấy sắc rộng rãi.

A Na Luật Đà, ta biết như thế rồi nên suốt ngày suốt đêm, suốt ngày lẫn đêm biết ánh sáng rộng rãi, cũng thấy sắc rộng rãi. Này A Na Luật Đà, bấy giờ ta thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.

Này A Na Luật Đà, nếu trong tâm ta sanh tai hoạn về nghi, đối với tai hoạn ấy trong tâm ta đã đoạn trừ, được thanh tịnh.

Với vô niệm, thân bệnh tưởng, thụy miên, tinh cần thái quá, giải đãi thái quá, sợ hãi, hỷ duyệt, tâm tự cao, đa dạng tưởng, và sanh tai hoạn về không quán sắc, đối với những tai hoạn ấy tâm được thanh tịnh.

Tu học, cực tu học về định có giác có quán. Tu học, cực tu học về định không giác ít quán. Tu học, cực tu học về định không giác không quán. Tu học, cực tu học về định thuần nhất. Tu học, cực tu học về định hỗn hợp. Tu học, cực tu học về định một phần ít. Tu học, cực tu học về định quảng vô lượng.

Ta có trí và kiến thanh tịnh, sáng suốt vô cùng, hướng đến an trú vào định, tinh cần tu tập đạo phẩm, biết như thật rằng: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. Này A Na Luật Đà, bấy giờ ta thực hành trụ chỉ ấy.

Phật thuyết như vậy. Tôn Giả A Na Luật Đà, Tôn Giả Nan Đề, Tôn Giả Kim Tì La sau khi nghe những lời Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường