Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Thế Ký - Phẩm Bốn - ðịa Ngục - Phần Hai

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

KINH THẾ KÝ  

PHẨM BỐN

ÐỊA NGỤC  

PHẦN HAI  

Phật bảo các Tỳ Kheo: Ðịa ngục lớn Vô gián, có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh, mỗi địa ngục ngang dọc năm trăm do tuần.

Vì sao gọi là địa ngục lớn Vô gián?

Vì các ngục tốt trong địa ngục này, bắt tội nhân lột da từ đầu đến chân, rồi dùng da ấy cột thân tội nhân vào bánh xe lửa, rồi cho xe lửa chạy đi chạy lại trên nền sắt nóng, làm cho thân thể nát tan, da thịt rời ra từng mảnh, khiến đau đớn Vô cùng kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vô gián.

Lại nữa, ở địa ngục này, có thành sắt lớn, bốn mặt thành lửa cháy dữ dội, ngọn lửa từ Ðông lan sang Tây, ngọn lửa từ Tây lan sang Ðông, ngọn lửa từ Nam lan đến Bắc, ngọn lửa từ Bắc lan đến Nam, ngọn lửa từ trên lan xuống dưới, ngọn lửa từ dưới lan lên trên, lửa cháy vòng quanh, không có một chỗ nào trống.

Tội nhân ở trong đây cứ chạy Ðông chạy Tây, toàn thân bị thiêu nướng, da thịt cháy nám, đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vô gián.

Lại nữa, ở địa ngục Vô gián này có thành bằng sắt, lửa cháy hừng hực, tội nhân bị lửa đốt thân, da thịt tiêu tan, đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vô gián.

Lại nữa, tội nhân ở địa ngục Vô gián này, sau thời gian chịu khổ lâu, thì cửa mở và tội nhân liền chạy về hướng cửa mở, trong khi chạy thì các bộ phận của thân đều bốc lửa, cũng như chàng lực sĩ tay cầm bó đuốc lớn bằng cỏ, chạy ngược gió, lửa ấy cháy phừng phực, thì khi tội nhân chạy lửa cũng bộc phát như vậy.

Khi chạy đến gần cửa, thì tự nhiên cửa khép lại. Tội nhân bò càng, nằm phục trên nền sắt nóng, toàn thân bị thiêu nướng, da thịt tiêu tan, đau đớn vô cùng, như muôn thứ độc cùng kéo đến một lúc. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vô gián.

Lại nữa, tội nhân ở địa ngục Vô gián này, những gì mà mắt thấy, chỉ thấy toàn là màu ác. Những gì tai nghe, toàn là âm thanh ác. Những gì mũi ngửi, toàn là mùi thối ác. Những gì thân xúc chạm, toàn là những sự đau đớn, những gì ý nhớ, chỉ nghĩ điều ác.

Lại nữa, tội nhân ở nơi đây, trong khoảnh khắc búng tay, không có một giây phút nào là không khổ. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vô gián.

Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ. Nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa. Cho đến địa ngục hàn băng lạnh và sau đó thì tội nhân mạng chung.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Thân làm nghiệp bất thiện,

Miệng, ý cũng bất thiện,

Ðều vào địa ngục Tưởng,

Sợ hãi, lông dựng đứng.

Ý ác đối cha mẹ,

Phật và hàng Thanh Văn,

Thì vào ngục Hắc thằng,

Khổ đau không thể tả.

Chỉ tạo ba nghiệp ác,

Không tu ba hạnh lành,

Thì vào ngục Đôi áp,

Khổ đau nào tả được.

Ôm lòng sân độc hại,

Sát sanh máu nhơ tay,

Tạo linh tinh hạnh ác,

Vào địa ngục Khiếu hoán.

Thường tạo những tà kiến,

Bị lưới ái phủ kín,

Tạo hạnh thấp hèn này,

Vào ngục đại Khiếu hoán.

Thường làm việc thiêu nướng,

Thiêu nướng các chúng sanh,

Sẽ vào ngục Thiêu chích,

Bị thiêu nướng luôn luôn.

Từ bỏ nghiệp thiện quả,

Quả thiện, đạo thanh tịnh,

Làm các hạnh tệ ác,

Vào ngục đại Thiêu chích.

Tạo tác tội cực nặng,

Tất sinh nghiệp đường ác,

Vào địa ngục Vô gián,

Chịu tội không thể tả.

Ngục Tưởng và Hắc thằng,

Ðôi áp, hai Khiếu hoán

Thiêu chích, Đại Thiêu chích,

Vô gián là thứ tám.

Tám địa ngục lớn này,

Hoàn toàn rực màu lửa

Tai họa do ác xưa,

Có mười sáu ngục nhỏ.

Phật bảo Tỳ Kheo: Giữa hai ngọn núi Ðại Kim Cương kia có cơn gió lớn trỗi lên, tên là Tăng Khư. Nếu như ngọn gió này thổi đến bốn châu thiên hạ và tám mươi ngàn thiên hạ khác, thì gió sẽ thổi Đại Địa này và các danh sơn cùng chúa Tu Di bay khỏi mặt đất từ mười dặm cho đến trăm dặm, tung lên bay liệng giữa Trời.

Tất cả thảy đều vỡ vụn. Giống như tráng sĩ tay nắm một nắm trấu nhẹ tung lên giữa hư không. Dưới ngọn gió lớn kia, giả sử  thổi vào thiên hạ này, cũng giống như vậy.

Vì có hai ngọn núi Ðại Kim Cương ngăn chận ngọn gió ấy, nên gió không đến được. Này Tỳ Kheo, nên biết, hai ngọn núi Ðại Kim Cương này có rất nhiều lợi ích và cũng do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm nên.

Lại nữa, gió ở khoảng giữa hai núi này nóng hừng hực. Nếu như gió này thổi đến bốn châu thiên hạ, thì những chúng sanh trong đó và những núi non, biển cả, sông ngòi, cây cối, rừng rậm đều sẽ bị cháy khô.

Cũng như giữa cơn nắng mùa hè, cắt một nắm cỏ non để ngay dưới mặt Trời, cỏ liền khô héo, thì ngọn gió kia cũng như vậy, nếu ngọn gió đó thổi đến Thế Giới này, thì sức nóng đó sẽ tiêu rụi tất cả.

Vì có hai ngọn núi Kim Cương này ngăn chận được ngọn gió đó, nên không thể đến đây được. Các Tỳ Kheo, nên biết, ngọn núi Kim Cương này có rất nhiều lợi ích và cũng do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm nên vậy.

Lại nữa, gió giữa hai núi này hôi thối, bất tịnh, tanh tưởi nồng nặc, nếu như ngọn gió này thổi đến bốn châu thiên hạ này, thì sẽ xông lên làm cho chúng sanh bị mù lòa. Nhưng vì có hai núi Ðại Kim Cương này ngăn chận nên ngọn gió ấy không thể đến được. Tỳ Kheo, nên biết, núi Kim Cương này có rất nhiều lợi ích và cũng do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm nên vậy.

Lại nữa, giữa hai núi này lại có mười địa ngục:

Một là Hậu vân.

Hai là Vô vân.

Ba là Ha ha.

Bốn là Nại hà.

Năm là Dương minh.

Sáu là Tu càn đề.

Bảy là Ưu bát la.

Tám là Câu vật đầu.

Chín là Phân đà lỵ.

Mười là Bát đầu ma.

Vì sao gọi là địa ngục Hậu vân?

Vì tội nhân trong ngục này tự nhiên sinh ra thân thể như đám mây dày. Cho nên gọi là Hậu vân.

Vì sao gọi là Vô vân?

Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, tự nhiên thân thể sinh ra như một cục thịt. Nên gọi là Vô vân.

Vì sao gọi là Ha ha?

Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, thường thì thân thể đau đớn, rồi rên la ối ối. Nên gọi là Ha ha.

Vì sao gọi là Nại hà?

Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, thường thân thể đau khổ vô cùng, không có nơi nương tựa, nên thốt lên sao bây giờ. Nên gọi là Nại hà.

Vì sao gọi là Dương minh?

Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, thường thân thể, đau đớn vô cùng, muốn thốt lên lời nhưng lưỡi không cử động được, chỉ giống như dê kêu, nên gọi là Dương minh.

Vì sao gọi là Tu càn đề?

Vì trong ngục này chỉ toàn là màu đen, cũng như màu hoa Tu càn đề, nên gọi là Tu càn đề.

Vì sao gọi là Ưu bát la?

Vì trong ngục này chỉ toàn là màu xanh, như màu hoa Ưu bát la, nên gọi là Ưu bát la.

Vì sao gọi là Câu vật đầu?

Vì trong ngục này toàn là màu hồng, như màu hoa Câu vật đầu, nên gọi là Câu vật đầu.

Vì sao gọi là Phân đà lỵ?

Vì trong ngục này toàn là màu trắng, như màu hoa Phân đà lỵ, nên gọi là Phân đà lỵ.

Vì sao gọi là Bát đầu ma?

Vì trong ngục này toàn là màu đỏ, cũng như màu hoa Bát đầu ma, nên gọi là Bát đầu ma.

Phật bảo các Tỳ Kheo:

Thí dụ như có một cái thùng có sáu mươi bốn hộc, mỗi hộc đựng đầy hạt mè và có một người cứ một trăm năm lấy đi một hột, như vậy cho đến hết.

Thời gian này vẫn chưa bằng thời gian chịu tội trong địa ngục Hậu vân.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Hậu vân bằng một tuổi ở địa ngục Vô vân.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Vô vân bằng chúng sanh một tuổi ở địa ngục Ha ha.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Ha ha, bằng chúng sanh một tuổi ở địa ngục Nại hà.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Nại hà, bằng chúng sanh một tuổi ở địa ngục Dương minh.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Dương minh bằng một tuổi ở ngục Tu càn đề.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Tu càn đề, bằng một tuổi ở địa ngục Ưu bát la.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Ưu bát la, bằng một tuổi ở địa ngục Câu vật đầu.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Câu vật đầu, bằng một tuổi ở địa ngục Phân đà lỵ.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Phân đà lỵ, bằng môt tuổi ở địa ngục Bát đầu ma.

Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Bát đầu ma, thì gọi là một trung kiếp, hai mươi trung kiếp thì gọi là một đại kiếp.

Trong địa ngục Bát đầu ma lửa cháy hừng hực, dù tội nhân còn cách ngọn lửa khoảng trăm do tuần cũng đã bị lửa thiêu nướng. Nếu cách tội nhân sáu mươi do tuần, thì hai tai bị điếc, không còn nghe gì cả. Nếu cách năm mươi do tuần, thì đôi mắt bị mù lòa, không còn thấy gì cả.

Tỳ Kheo Cù ba lê dùng tâm độc ác, hủy báng Tôn Giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, nên sau khi mạng chung phải đọa vào địa ngục Bát đầu ma này.

Bấy giờ, vị Phạm Vương liền nói bài kệ:

Phàm con người ở đời,

Búa rìu từ cửa miệng

Sở dĩ giết chết mình,

Là do lời nói độc.

Người đáng chê thì khen,

Người đáng khen thì chê

Miệng làm theo nghiệp ác.

Thân phải chịu tội ấy.

Mánh lới cướp của cải,

Tội ấy cũng còn nhẹ

Nếu hủy báng Thánh Hiền,

Thì tội ấy rất nặng.

Vô vân, tuổi trăm ngàn,

Hậu vân, tuổi bốn mốt

Hủy Thánh mắc tội này,

Do tâm, miệng làm ác.

Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: Vị Phạm Thiên đã nói bài kệ như vậy, đó là lời nói chân chánh, được Ðức Phật ấn khả.

Vì sao?

Vì nay Ta là Ðấng Như Lai, Chí Chân, Ðẳng Chánh Giác, cũng nói ý nghĩa như vậy:

Phàm con người ở đời,

Búa rìu từ cửa miệng

Sở dĩ giết chết mình,

Là do lời nói độc.

Người đáng chê thì khen,

Người đáng khen thì chê

Miệng làm theo nghiệp ác.

Thân phải chịu tội ấy.

Mánh lới cướp của cải,

Tội ấy cũng còn nhẹ,

Nếu hủy báng Thánh Hiền,

Thì tội ấy rất nặng.

Vô vân, tuổi trăm ngàn,

Hậu vân, tuổi bốn mốt

Hủy Thánh mắc tội này,

Do tâm, miệng làm ác.

Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: Về phía Nam cõi Diêm Phù Đề, trong núi Ðại Kim Cương có cung điện của Vua Diêm La, chỗ Vua cai trị ngang dọc sáu ngàn do tuần.

Thành này có bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây và vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.

Tại chỗ Vua Diêm La cai trị, ngày đêm ba thời đều có vạc đồng lớn, tự nhiên xuất hiện trước mặt. Nếu vạc đồng đã xuất hiện ở trong cung thì nhà Vua cảm thấy sợ hãi, liền bỏ ra ngoài cung. Nếu vạc đồng xuất hiện ngoài cung thì Vua cảm thấy sợ hãi, liền bỏ vào trong cung.

Có ngục tốt to lớn bắt Vua Diêm La nằm trên bàn sắt nóng, dùng móc sắt cạy miệng cho mở ra rồi rót nước đồng sôi vào, làm cháy bỏng môi, lưỡi từ cổ đến bụng, thông suốt xuống dưới, không chỗ nào không chín nhừ. Sau khi chịu tội xong, Nhà Vua cùng thể nữ vui đùa.

Các vị Đại Thần ở đây lại cũng cùng hưởng phúc báo như vậy.

Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: Có ba vị sứ giả.

Những gì là ba?

Một là già, hai là bệnh, ba là chết.

Nếu có chúng sanh nào thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác, thì sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục.

Lúc này, ngục tốt dẫn tội nhân đến chỗ Vua Diêm La.

Ðến nơi rồi, thưa rằng:

Ðây là người Thiên Sứ cho đòi.

Vậy xin Đại Vương hỏi cung hắn.

Vua Diêm La hỏi người bị tội: Ngươi không thấy sứ giả thứ nhất sao?

Người bị tội đáp: Tôi không thấy.

Vua Diêm La nói tiếp: Khi nhà ngươi còn ở trong loài người, có thấy người nào già nua, đầu bạc, răng rụng, mắt lờ, da thịt nhăn nheo, lưng còm chống gậy, rên rỉ mà đi, hay thân thể run rẩy, vì khí lực hao mòn.

Ngươi có thấy người này không?

Người bị tội đáp: Có thấy.

Vua Diêm La nói tiếp: Tại sao ngươi không tự nghĩ rằng mình cũng sẽ như vậy?

Người kia đáp: Vì lúc đó tôi buông lung, không tự hay biết được.

Vua Diêm La nói: Ngươi buông lung không tu tập thân, miệng và ý, bỏ ác mà làm lành. Nay ta sẽ cho ngươi biết cái khổ của sự buông lung.

Vua lại nói tiếp: Nay ngươi phải chịu tội, không phải là lỗi của cha mẹ, không phải là lỗi của anh em, cũng không phải là lỗi của Thiên Đế, cũng không phải là lỗi của Tổ Tiên, cũng không phải là lỗi của hàng tri thức, đầy tớ, sứ giả, cũng không phải là lỗi của Sa Môn, Bà La Môn. Chính ngươi làm ác, nên chính ngươi phải chịu tội.

Bấy giờ, Vua Diêm La cho hỏi tội nhân về vị Thiên Sứ thứ nhất xong, lại hỏi về Thiên Sứ thứ hai: Thế nào, nhà ngươi có thấy vị Thiên Sứ thứ hai không?

Ðáp rằng: Không thấy.

Vua lại hỏi: Khi nhà ngươi còn ở trong loài người, ngươi có thấy kẻ bị bệnh tật, khốn đốn, nằm lăn lóc trên giường, thân thể lăn lộn trên phẩn dãi hôi thối, không thể đứng dậy được. Cần phải có người đút cơm cho, đau nhức từng lóng xương, nước mắt chảy, rên rỉ, không thể nói năng được.

Ngươi có thấy người như thế chăng?

Tội nhân đáp: Có thấy.

Vua Diêm La nói tiếp: Tại sao nhà ngươi không tự nghĩ: Rồi đây ta cũng sẽ bị tai hoạn như vậy?

Tội nhân đáp: Vì khi ấy buông lung tôi không tự hay biết được.

Vua Diêm La nói tiếp: Vì chính ngươi buông lung, nên không thể tu tập thân, miệng và ý, không bỏ việc ác mà làm điều lành. Nay ta sẽ cho ngươi biết thế nào là cái khổ của sự buông lung.

Vua lại nói: Nay ngươi phải chịu tội, không phải là lỗi của cha mẹ, không phải là lỗi của anh em, cũng không phải là lỗi của Thiên Đế, cũng không phải là lỗi của Tổ Tiên, cũng không phải là lỗi của hàng tri thức, đầy tớ, sứ giả, cũng không phải là lỗi của Sa Môn, Bà La Môn. Chính ngươi làm ác, nên chính ngươi phải chịu tội.

Khi Vua Diêm La hỏi người bị tội về Thiên Sứ thứ hai xong, bấy giờ lại hỏi về Thiên Sứ thứ ba: Thế nào, nhà ngươi không thấy vị Thiên Sứ thứ ba chứ?

Ðáp: Không thấy.

Vua Diêm La hỏi tiếp: Khi còn làm người, ngươi có thấy người chết, thân hư hoại, mạng chung, các giác quan đều bị diệt hẳn, thân thể ngay đơ cũng như cây khô, vứt bỏ ngoài gò mả để cho cầm thú ăn thịt, hoặc để trong quan tài, hoặc dùng lửa thiêu đốt chăng?

Tội nhân đáp: Có thấy.

Vua Diêm La nói tiếp: Tại sao nhà ngươi không tự nghĩ: Rồi đây ta cũng sẽ bị chết như người đó không khác gì?

Người bị tội đáp: Vì khi ấy buông lung tôi không tự hay biết được.

Vua Diêm La nói tiếp: Vì chính ngươi buông lung, nên không thể tu tập thân, miệng và ý, không cải đổi việc ác mà thực hành điều thiện. Nay ta sẽ cho ngươi biết thế nào là cái khổ của sự buông lung.

Vua lại nói: Nay ngươi phải chịu tội, không phải là lỗi của cha mẹ, không phải là lỗi của anh em, cũng không phải là lỗi của Thiên Đế, cũng không phải là lỗi của Tổ Tiên, cũng không phải là lỗi của hàng tri thức, đầy tớ, sứ giả, cũng không phải là lỗi của Sa Môn, Bà La Môn.

Chính ngươi làm ác, nên chính ngươi phải chịu tội. Bấy giờ, Vua Diêm La hỏi về Thiên Sứ thứ ba xong, bèn giao lại cho ngục tốt.

Khi đó ngục tốt liền dẫn đến địa ngục lớn. Ðịa Ngục lớn này ngang dọc một trăm do tuần, sâu một trăm do tuần.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Bốn hướng có bốn cửa,

Ngõ ngách đều như nhau

Dùng sắt làm tường ngục,

Trên che võng lưới sắt,

Dùng sắt làm nền ngục,

Tự nhiên lửa bốc cháy

Ngang dọc trăm do tuần,

Ðứng yên không lay động.

Lửa đen phừng phực cháy,

Dữ dội khó mà nhìn

Có mười sáu ngục nhỏ,

Lửa cháy do ác hạnh.

Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: Khi ấy Vua Diêm La tự nghĩ: Chúng sanh ở thế gian, vì mê lầm không ý thức, nên thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác. Do đó sau khi lâm chung, ít có ai không chịu khổ này.

Nếu như những chúng sanh ở thế gian, sửa đổi điều ác, sửa thân, miệng, ý để thực hành theo điều lành, thì sau khi lâm chung sẽ được an vui như hàng Chư Thiên vậy.

Sau khi ta lâm chung được sinh vào trong cõi người, nếu gặp được Ðức Như Lai, thì sẽ ở trong chánh pháp, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, đem lòng tin trong sạch để tu hành phạm hạnh thanh tịnh. Những điều cần làm đã làm xong, đã đoạn trừ sanh tử, tự mình tác chứng ngay trong hiện tại, không còn tái sinh.

Bấy giờ, Ðức Thế Tôn đọc bài kệ:

Tuy là thấy Thiên Sứ,

Nhưng vẫn còn buông lung

Người ấy thường âu lo,

Sanh vào nơi ti tiện.

Nếu người có trí tuệ,

Khi gặp thấy Thiên Sứ,

Gần gũi pháp Hiền Thánh,

Mà không còn buông lung.

Thấy thụ sinh mà sợ,

Do sanh, già, bệnh, chết.

Không thụ sinh, giải thoát,

Hết sanh, già, bệnh, chết.

Người đó được an ổn.

Hiện tại chứng vô vi,

Ðã vượt qua lo sợ,

Chắc chắn nhập Niết Bàn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường