Phật Thuyết Kinh Tu Ma đề Nữ - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Chi Khiêm, Đời Ngô
PHẬT THUYẾT KINH TU MA ĐỀ NỮ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Chi Khiêm, Đời Ngô
PHẦN BỐN
Thần Bát Già Tuần dùng kệ tán than Phật:
Diệt sạch các mối buộc
Ý niệm không tán loạn
Dùng thần túc vô cầu
Đi vào Quốc Độ kia
Tâm tánh rất thanh tịnh
Đoạn niệm ác, ma tà
Công đức như biển lớn
Nay vào Quốc Độ ấy
Dung nhan rất thù thắng
Không còn dấy các sử
Vì họ không tự cứu
Nay vào Quốc Độ đó
Để độ bốn hạng người
Thoát khỏi sinh, già, chết
Nhằm dứt nguồn gốc hữu
Nay vào Quốc Độ kia.
Trưởng Giả Mãn Tài từ xa trông thấy Đức Thế Tôn các căn tự tại trên đời thật ít có, thanh tịnh như vàng ròng, với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân, như núi Tu Di vượt lên các loại núi khác, lại như một khối vàng phóng ra ánh sang tỏa chiếu khắp.
Trưởng Giả dùng kệ hỏi Tu Ma Đề nữ:
Đây là Nhật quang chăng?
Chưa từng thấy dáng ấy
Ngàn vạn ức hào quang
Chưa được xem tường tận.
Bấy giờ Tu Ma Đề nữ quỳ thẳng, chắp tay hướng về Đức Như Lai, nói kệ trả lời trưởng giả:
Chẳng có mặt trời nào
Phóng được ngàn ánh sáng
Vì tất cả chúng sinh
Như là thầy của con.
Đều tán thán Như Lai
Như đã nói ở trước
Nay sẽ được quả lớn
Nên dốc cúng dường Ngài.
Trưởng Giả Mãn Tài quỳ gối bên phải sát đất, dùng kệ tán than Như Lai:
Quy y Đấng Mười Lực
Viên quang thân sắc vàng
Trời người đều khen kính
Hôm nay con quy mạng
Ngài là Vua Mặt Trời
Ánh sáng giữa trăng sao
Đã độ người khó độ
Hôm nay con quy mạng.
Ngài như Thiên Đế Thích
Như phạm hạnh tâm từ
Tự giác, độ chúng sinh
Hôm nay con quy mạng
Tôn quý trong Trời người
Trên các quỷ, Thần Vương
Hàng phục các ngoại đạo
Hôm nay con quy kính.
Tu Ma Đề nữ quỳ thẳng, chấp tay, tán thán Đức Thế Tôn:
Tự điều, khéo điều người
Tự ngăn, lại ngăn người
Tự độ, độ muôn loài
Giải thoát mình và người
Mình, người đến bờ kia
Tự chiếu, chiếu quần manh
Không ai không được độ
Không tranh, không giành giật
Luôn an trụ thanh tịnh
Tâm ý không dao động
Mười lực thương thế gian
Cúi đầu lễ lần nữa.
Ngài là bậc có đủ bốn tâm vô lượng là từ, bi, hỷ, hộ, đầy đủ ba cửa giải thoát là không, vô tướng, vô nguyện, là Bậc Tối Tôn đệ nhất trong Dục Giới, ở trên cả các Cõi Trời, đầy đủ bảy Thánh tài, luôn ủng hộ muôn người, đời sống phạm hạnh tự nhiên, không một bậc nào sánh bằng Ngài kể cả về hình tướng, ngày nay con xin quy y.
Khi ấy, sáu ngàn Phạm Chí, trông thấy Thế Tôn hiện các thần biến như vậy, đều nói với nhau: Chúng ta nên rời khỏi nước này, đi đến một đất nào khác. Sa Môn Cù Đàm đã hàng phục dân chúng ở đây rồi. Thế là sáu ngàn Phạm Chí ấy bèn tìm cách ra khỏi nước, không trở lại nữa.
Cũng như sư tử là Vua loài thú, khi ra khỏi hang núi, liền xem xét bốn phương rồi rống lên ba tiếng, sau đó mới đi kiếm ăn. Các loài thú lớn nhỏ nghe thấy tiếng rống đều bỏ chạy tứ tán, như bay đi mất hay ẩn núp không còn biết đâu là dấu vết.
Ngay cả loài voi có thần lực đang an ổn, mà vì tiếng rống của sư tử, cũng đều vội chạy đi không thể ở yên chốn cũ.
Tại sao như vậy?
Vì sư tử là Vua của các loài thú, rất có uy thần. Ở đây cũng vậy, sáu ngàn Phạm Chí nghe âm hưởng cùng tiếng nói của Thế Tôn thì đều tìm cách tẩu thoát vì tự thấy bất ổn trước uy lực quá lớn lao của Sa Môn Cù Đàm.
Bấy giờ Thế Tôn xả hết thần túc, như thường pháp đi vào thành Mãn Phú. Lúc chân Thế Tôn đạp trên bệ cửa đi vào thì trời đất chấn động, các tôn thần, Chư Thiên đều tung rải hoa cúng dường.
Khi ấy dân chúng thấy dung mạo của Đức Thế Tôn với các căn trong lành, có ba mươi tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp tự trang nghiêm, nên họ cùng nói bài kệ:
Lưỡng Túc Tôn kỳ diệu
Phạm Chí không dám chống
Chẳng nên thờ Phạm Chí
Không được gặp Thế Tôn!
Thế Tôn đến nhà trưởng giả, ngồi trên tòa. Bấy giờ dân chúng trong nước ấy hết sức phấn khởi. Tại nhà trưởng giả, đã có tới tám vạn bốn ngàn người dân vây tập như muốn phá vỡ nhà ông để được thấy Thế Tôn và chúng Tỳ Kheo Tăng.
Đức Thế Tôn tự nghĩ: Những người dân này tất sẽ gây sự tổn hại, nên dùng thần lực để khiến cho dân chúng cả nước được thấy thân ta và chúng Tỳ Kheo Tăng. Nghĩ như vậy rồi, Đức Thế Tôn liền biến nhà cửa của trưởng giả đều trở thành lưu ly, trong ngoài đều thấy nhau, như là xem viên ngọc ở trong lòng bàn tay.
Vào lúc ấy, Tu Ma Đề nữ đi đến trước Phật, đầu mặt lạy nơi chân Ngài, mừng vui lẫn lộn, nói kệ:
Đủ nhất thiết trí tuệ
Vượt lên tất cả pháp
Dứt sạch lưới dục ái
Nay con tự quy y
Thà sai cha mẹ con
Làm mù đôi mắt con.
Quyết không vào chốn ấy
Nẻo tà kiến, ngũ nghịch
Xưa làm duyên ác gì
Phải bị đến chốn này
Như chim sa vào lưới
Xin giải mối nghi buộc.
Thế Tôn dùng kệ đáp:
Con hãy vui chớ buồn
Ý yên ổn, bình tĩnh
Đừng sinh tâm lo lắng
Nay Như Lai sẽ giảng
Con vốn không gây tội
Để bị đến chốn này
Quả báo của thệ nguyện
Muốn độ chúng sinh ấy
Nay phải nhổ gốc rễ
Không đọa ba đường ác
Chúng sinh đến số ngàn
Hiện tiền sẽ được độ
Hôm nay sẽ trừ sạch
Khiến được mắt trí tuệ
Cho trời, người, dân chúng
Thấy rõ như xem ngọc.
Tu Ma Đề nữ nghe lời Phật dạy như vậy thì vui mừng hớn hở. trưởng giả bèn sai những người tùy tùng các món ăn thức uống thịnh soạn dâng cúng Đức Phật.
Sau khi thấy Đức Thế Tôn thọ trai xong, trưởng giả liền dâng nước thanh tịnh đến Ngài, rồi lấy một ghế nhỏ ngồi trước Thế Tôn. Đến lượt những người phục vụ trong nhà và tám vạn bốn ngàn người đều ngồi theo thứ tự, hoặc có người tự xưng tên rồi ngồi xuống.
Bấy giờ Đức Thế Tôn tuần tự vì trưởng giả và tám vạn bốn ngàn người dân giảng giải về diệu luận, gồm các luận về giới, luận về bố thí, luận về sinh thiên. Nêu rõ các thứ dục, các tướng bất tịnh, các lậu là cấu uế xấu ác. Pháp xuất gia là quan trọng.
Đức Thế Tôn thấy trưởng giả, Tu Ma Đề nữ và tám vạn bốn ngàn dân chúng, tâm ý mở thông, nên theo sự thuyết pháp thường lệ của Chư Phật Thế Tôn, thuyết giảng về khổ, tập, diệt, đạo cho các chúng sinh ấy.
Những người kia ngay nơi chỗ mình ngồi, đoạn sạch mọi phiền não cấu nhiễm, đắc pháp nhãn thanh tịnh, như tấm vải trắng rất sạch, dễ nhuộm màu. Trưởng giả Mãn Tài, Tu Ma Đề nữ và tám vạn bốn vạn dân chúng đã đạt được các pháp ấy, dứt hết mọi nghi ngờ nên đắc vô sở úy, họ đều dốc long quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới.
Tu Ma Đề nữ ở ngay trước mặt Phật, nói kệ:
Tai Như Lai thông suốt
Nghe con gặp khổ này
Giáng thần đến hóa độ
Mọi người được pháp nhãn.
Khi Đức Thế Tôn thuyết giảng pháp xong, liền rời chỗ ngồi trở về chỗ ở.
Các Tỳ Kheo bạch Phật: Tu Ma Đề nữ vốn tạo được nhân duyên gì, được sinh vào nhà phú quý. Lại do nhân duyên gì lại bị đọa vào chốn tà kiến như thế, rồi tạo nên công đức thiện gì mà nay được pháp nhãn tịnh.
Cũng như khiến cho tám vạn bốn vạn người cũng đều được pháp nhãn thanh tịnh?
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo:Vào thời quá khứ xa xưa, trong hiền kiếp này, có Đức Phật Ca Diếp gồm đủ các tôn hiệu: Minh Hạnh, Thành Vi, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật, Chúng Hựu, du hóa trong nước Ba La Nại, cùng với chúng Đại Tỳ Kheo gồm đủ hai vạn người.
Thời bấy giờ, có Vua tên Ai Mẫn, con gái tên Tu Ma Na. Vị công chúa ấy có tâm luôn kính trọng đối với Phật Ca Diếp, giữ gìn giới cấm, thường ưa thích bố thí, cúng dường thể hiện đủ bốn pháp.
Thế nào là bốn?
Một là bố thí, hai là ái kính, ba là lợi người, bốn là đồng lợi.
Đối với Pháp Cú của Đức Như Lai Ca Diếp, công chúa Tu Ma Na luôn đọc tụng ghi nhớ, thường lên lầu cao đọc tụng lớn tiếng và phát nguyện: Xin luôn có được bốn pháp ái kính này.
Lại đối trước Như Lai đọc tụng pháp cú, trong việc làm này giả như có được chút ít phước đức, thì nguyện sinh vào nơi nào cũng không bị đọa các nẻo ác và nhà nghèo khổ, trong vị lai, cũng sẽ được gặp Bậc Thế Tôn như vậy, khiến con không chuyển đổi thân nữ, ngay nơi thân nữ đạt được pháp nhãn thanh tịnh.
Khi ấy dân chúng trong thành, nghe công chúa phát thệ nguyện như thế, họ đều cùng nhau tập hợp lại đến gặp Vương Nữ, thưa: Ngày nay, Vương Nữ đã dốc bày tỏ lòng tin rất lớn lao, lại làm các công đức về bốn pháp không thiếu là bố thí, ái kính, lợi người, đồng sự, cùng phát thệ nguyện.
Mong cho trong đời vị lai cũng gặp được bậc Thế Tôn như vậy, xin được nghe thuyết pháp và đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Hôm nay Vương Nữ đã phát thệ nguyện ấy thì xin cùng với chúng tôi và dân chúng trong nước đồng thời cùng được cứu độ.
Vương Nữ đáp: Tôi xin đem công đức này hồi hướng đến các người, đến mọi người dân. Nếu như gặp được Như Lai thuyết pháp thì đồng thời đều được độ thoát.
Này các Tỳ Kheo, các thầy có điều nghi ngờ chăng?
Đừng nên nghĩ như vậy. Vua Ai Mẫn lúc ấy nay là trưởng giả Tu Đạt A Na Bân Trì, Vương Nữ lúc ấy nay là Tu Ma Đề nữ, còn dân chúng trong nước kia, nay là tám vạn bốn ngàn người dân của thành Mãn Phú.
Do thệ nguyện của họ, nên nay gặp được ta, nghe pháp, đắc đạo, cả thảy số dân chúng đó đều được pháp nhãn thanh tịnh. Đây là ý nghĩa cần phải ghi nhớ và phụng hành.
Vì sao?
Vì bốn pháp ấy là phước điền cao nhất. Nếu có Tỳ Kheo tuân hành bốn pháp ấy thì liền thấu đạt được thánh pháp Tứ Đế. Vậy phải cầu phương tiện để thành tựu bốn pháp đó. Này các Tỳ Kheo, cần phải tu học như thế.
Bấy giờ, các Tỳ Kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thuần đà - phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm Thọ Ký
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nê Hoàn - Phẩm Mười Bốn - Phẩm Văn Tự
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Hà Cố Xuất Gia
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Nhất - Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát - Phần Chín