Phật Thuyết Kinh Tượng Dịch - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Ma Mật Đa, Đời Lưu Tống
PHẬT THUYẾT KINH TƯỢNG DỊCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Ma Mật Đa, Đời Lưu Tống
PHẦN BA
Lúc bấy giờ, Xá Lợi Phất bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là trí đầy đủ đối với trí không thật, để mau đạt được vô sinh pháp nhẫn?
Đức Phật nói: Này Xá Lợi Phất! Nếu biết tất cả là không thật, mà cũng không chứng đắc, thì những gì là không thật?
Nào là: Ngã kiến, chúng sinh kiến, mạng kiến, nhân kiến, đoạn kiến, thường kiến. Có nhưng vẫn không thật, như tưởng Phật, tưởng Pháp, tưởng Tăng, tưởng Niết Bàn.
Này Xá Lợi Phất! Nếu tâm còn dao động, ưa hý luận, thì tất cả đều là không thật.
Này Xá Lợi Phất! Như vậy, nhờ nắm được những thứ không thật đó, mà đưa đến giải thoát.
Này Xá Lợi Phất! Do nắm được những việc như vậy, nên mới đầy đủ trí không thật, để mau đạt đến vô sinh pháp nhẫn.
Khi Đức Phật nói pháp này, có bốn vạn hai ngàn người trong chúng hội, được vô sinh pháp nhẫn, có sáu vạn Ưu Bà Tắc phát đạo tâm vô thượng chánh chân. Có ba vạn sáu ngàn Thiên Tử được hướng đến trí chứng. Còn sáu mươi Tỳ Kheo Tăng thượng mạn thì dứt hết tâm hữu lậu, được giải thoát.
Khi tâm họ đã được giải thoát, họ đều đồng thanh cùng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ban đầu, con đến với hàng Lục sư sáu vị thầy ngoại đạo xuất gia. Từ nay trở về sau đối với Phật, Pháp, Tăng chẳng phải là nơi con tôn trọng nhớ nghĩ.
Bạch Thế Tôn! Con từ nay, sẽ nói các pháp là không tạo tác, nói không nhân duyên, nói không có nghiệp, không có điều phục.
Khi ấy, ở trong chúng, có nhiều chúng sinh, đều nói với nhau: Các Tỳ Kheo này sẽ bỏ giới của Phật, mặc áo ngoại đạo, nên nói quá điên đảo.
Bấy giờ, Đại Đức Xá Lợi Phất biết tâm của chúng kia, nên nói với các Tỳ Kheo: Các Đại Đức! Vì nhân duyên gì, mà nói như vậy?
Như nói: Ta bắt đầu xuất gia với sáu vị thầy ngoại đạo.
Các Tỳ Kheo ấy nói: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Từ nay về sau, chúng tôi, đối với sáu vị thầy ấy hay các sư khác cũng xem đồng một tướng, không tăng, không giảm.
Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chúng tôi nay đã biết các sư đều không khác, với pháp xuất gia không có phân biệt, cho nên mới nói xuất gia như thế.
Xá Lợi Phất nói: Các Đại Đức, vì nhân duyên gì các vị nói: Từ nay, chẳng phải chỉ có Phật là nơi tôn trọng của tôi?
Các Tỳ Kheo ấy nói: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chúng tôi từ nay về sau, tự nhiên được sáng rõ, bừng cháy rực rỡ, không còn phải mượn các thứ ánh sáng khác. Chúng tôi trở về nương tựa chính mình, chẳng trở về nương tựa chỗ nào khác mà chỉ tự trở về với chính mình và tự tôn trọng chính mình.
Vì vậy cho nên, chúng tôi nói: Chẳng phải chỉ có Phật là tôi tôn trọng.
Vì sao?
Vì tôi vốn không lìa Phật, mà Phật cũng không lìa tôi vậy.
Xá Lợi Phất lại nói: Đại Đức vì nhân duyên gì lại nói: Không nhớ nghĩ pháp, không nhớ nghĩ Tăng?
Các Tỳ Kheo nói: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chúng tôi từ nay không còn pháp nào để được hoặc để nhớ nghĩ. Hoặc để thu về.
Vì vậy nên chúng tôi nói: Từ nay về sau không còn nhớ nghĩ đến Pháp, đến Tăng.
Xá Lợi Phất nói: Này các Đại Đức!
Còn vì sao lại nói: Tôi từ nay về sau nói các pháp là không tạo tác?
Các Tỳ Kheo nói: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chúng tôi từ nay về sau, đã biết đối với tất cả các pháp, vốn là không tạo tác, mà trong đó chẳng phải tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác.
Do vậy nên nói: Chúng tôi từ nay nói các pháp không tạo tác.
Xá Lợi Phất nói: Đại Đức vì nhân duyên gì.
Lại nói: Từ nay nói không nhân duyên?
Các Tỳ Kheo nói: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chúng tôi từ nay về sau tất cả đã có đường đi, sống theo nhân duyên đã chấm dứt, trong đó cũng không còn có nhân.
Vì vậy nên nói: Chúng tôi từ nay nói không nhân, không duyên.
Ngài Xá Lợi Phất lại nói: Đại Đức vì sao nói: Chúng tôi từ nay về sau nói không có nghiệp không điều phục?
Các Tỳ Kheo nói: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chúng tôi từ nay về sau biết tất cả các pháp là rốt ráo Niết Bàn. Trong đó, không có việc điều phục và chẳng phải vì thế mà không điều phục.
Vì vậy, cho nên nói: Tôi nói vốn không có nghiệp do không có nghiệp nên cũng không cần điều phục.
Đấy là các Tỳ Kheo, vốn là những vị tăng thượng mạn. Khi luận nói pháp này, có ba ngàn sáu trăm Tỳ Kheo nghe được, liền dứt trừ các lậu, tâm được giải thoát.
Khi ấy, Thế Tôn mới khen ngợi các Tỳ Kheo: Hay thay! Hay thay! Đúng thật trong hy vọng đó, không có một pháp nào có thể đạt được.
Lúc ấy, Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người nghe lời này, sẽ được pháp gì?
Đức Phật nói: Này Văn Thù Sư Lợi! Người đó sẽ được vô sinh pháp nhẫn.
Văn Thù Sư Lợi nói: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát muốn được vô sinh pháp nhẫn, nên học như thế nào?
Làm như thế nào?
Ở như thế nào?
Tu tập như thế nào?
Khi ấy, Thế Tôn muốn trả lời cho Đồng Tử Văn Thù Sư Lợi, về câu hỏi vô sinh pháp nhẫn, nên Ngài liền nói kệ:
Nếu người mong trí Phật
Và các bậc trí cao
Không có pháp nên lấy
Cũng không pháp đáng bỏ.
Không có pháp để được
Nếu sự sống là có
Không có pháp hòa hợp
Phàm phu muốn hòa hợp.
Nếu đã biết, nên đoạn
Nói pháp vì chúng sinh
Phàm phu sống và làm
Không tin pháp vô sinh.
Xả bỏ pháp của ma
Đạo bồ đề trên hết
Phàm phu chấp hai pháp
Không biết pháp, không hai.
Đều là huyễn, không thật
Phàm phu thấy khác người
Trong đó thật không khác
Tất cả đồng một tướng.
Nếu có phàm phu nói
Không hai, làm không hai
Cùng huyễn hóa, bình đẳng
Người hoặc phàm phu nói:
Ta không thể hết dục
Dứt sạch sân, ngu si
Ta nên khéo suy nghĩ
Chẳng vật, sinh tưởng vật.
Hết chấp là Niết Bàn
Diệt tham dục, sân, si
Nói chỉ bày pháp không
Không diệt cũng không sinh
Đây gọi là Niết Bàn.
Người siêng năng, tiến lên
Lìa bỏ xa ngã pháp
Nhớ ban cho, giữ giới
Thích nhớ đến Chánh Giác
Là không vào bồ đề
Bình đẳng hành tưởng hạnh
Giả dối che phàm phu.
Không biết pháp đều không
Các pháp cùng một tướng
Nên giảng nói nhiều cách.
Nếu rõ biết pháp này
Thể tánh kia, không khác
Như năm ngón là tay
Được Chánh Giác không khó
Không xa đạo Chánh Giác
Cũng không gần Chánh Giác
Phân biệt, không phân biệt
Là cách xa Chánh Giác
Phàm phu làm sai khác
Cùng nhau cho đúng sai
Người này giữ giới: Tốt
Kẻ kia phá giới: Xấu
Các pháp cũng như mộng
Pháp hữu vi không thật
Trí tuệ không giữ chặt
Biết đó như huyễn hóa
Trong đó, giới không thật
Phá giới, cũng không thật
Nhân duyên sinh các pháp
Trong đó không có ngã.
Với ngàn muôn ức kiếp
Cho cũng như thọ nhận
Bảo vệ giới trên hết
Chư Phật không thọ ký.
Khi ta lìa vọng tưởng
Cũng không tưởng bố thí
Lìa hết thảy điên đảo
Là ta được thọ ký.
Ban cho được giàu có
Giữ giới, sinh Cõi Trời
Trong đó không nắm bắt
Là giác ngộ cao tột.
Phàm phu dựa vào có
Ngu si nhớ tưởng dối
Chúng ta được pháp nhẫn
Vì vô vi không sinh.
Trong pháp vô sinh ấy
Cũng không nghĩ là sinh
Trong ngàn muôn ức kiếp
Được pháp nhẫn không khó.
Giả tên để nói pháp
Pháp, không có tác giả
Không chỗ ở căn bản
Tất như tướng không nhàn.
Chư Phật nhiều muôn ức
Muốn dứt tham, sân, si
Diễn nói pháp vô thượng
Là pháp không thể hết.
Thật pháp, không hư vọng
Mau chóng rồi cũng hết
Như vậy pháp không thật
Là thực tế có được
Dâm dục, sân vô biên
Ngu si cũng quá nhiều
Đều là không thật cả.
Trong cái không thật ấy
Như hạt giống không mầm
Làm sao có lá, quả
Cây đã không mọc lá
Làm sao có trổ hoa
Pháp vô sinh là vậy.
Chúng sinh tuy có con
Không sinh cũng không xuất
Việc này thấy như thật
Giống cô gái bằng đá
Sẽ không có con cái
Mà đã không có con
Cũng khỏi lo về con
Tuệ phân biệt như vậy.
Tất cả pháp không sinh
Nhờ vậy không sợ hãi
Chịu khổ trong sinh tử
Dối lo che phàm phu
Không biết pháp như huyễn
Nặng gánh vác hư không.
Kẻ si, không có trí
Nếu biết được pháp này
Không thật, không bờ mé
Vô lượng A tăng kỳ
Như thế mới không si
Có chỗ nói bản tế
Ta nói là vô tế
Hậu tế, cũng như vậy.
Chúng sinh nghĩ biên tế
Không tế, tưởng nhớ tế
Vốn không có biên tế
Do biết ý nghĩa này
Trí kia không có hai
Như tướng hư không tế.
Chúng sinh nghĩ biên tế
Bản tế: Ảnh trong gương
Là trí không chỗ biết
Người tu hành phân biệt
Tâm kia nghĩ như vậy:
Khi nào ta hết ác
Đến khi nào thành Phật
Chư Phật vốn vô sinh.
Chẳng phải do hòa hợp
Pháp vốn không hòa hợp
Phàm phu muốn hòa hợp
Vốn không mà tạo có.
Cũng không có chỗ dừng
Hư không chẳng chỗ nương
Không ngại không có vật
Nên gọi là hư không.
Như vậy biết Chánh Giác
Như vậy biết bồ đề
Biết chúng sinh cũng vậy
Giác ngộ cõi hư không
Cõi chúng sinh giống nhau
Nếu biết được như vậy
Được giác ngộ không khó.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Hiền Ngu - Phẩm Sáu Mươi Năm - Phẩm Mười đứa Con Của Nàng Tô Man
Phật Thuyết Kinh Như Lai Trang Nghiêm Trí Tuệ Quang Minh Nhập Nhất Thiết Phật Cảnh Giới - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Diệt Sân
Phật Thuyết Kinh Như Lai Hưng Hiển - Phần Mười Năm
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Túc Mạng
Phật Thuyết Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Phẩm Sáu - Phẩm Tịnh địa đà La Ni
Phật Thuyết Kinh Nhất Thiết Như Lai Kim Cương Thọ Mệnh đà La Ni