Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Mười Năm - Phẩm Hai Mươi - Bài Kệ - Chuyện đôi Bạn Citta Sambhùta Tiền Thân Citta Sambhùta

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP MƯỜI

CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT  

CHƯƠNG MƯỜI NĂM  

PHẨM HAI MƯƠI

BÀI KỆ  

CHUYỆN ĐÔI BẠN CITTA SAMBHÙTA

TIỀN THÂN CITTA SAMBHÙTA  

Chóng chầy thiện nghiệp đều mang quả. Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hai người bạn đồng tu của Tôn Giả Mahà Kassapa Đại Ca Diếp sống rất hòa hợp với nhau.

Chuyện kể rằng đôi bạn này vô cùng thân thiết, đã phân chia mọi thứ cùng nhau hết sức công bình. Ngay cả khi khất thực, hai vị cũng cùng đi ra và cùng trở về với nhau, hai vị không hề chịu rời nhau.

Trong Chánh Pháp Đường, Tăng Chúng đang ngồi tán thán tình bằng hữu ấy thì bậc Đạo Sư bước vào, hỏi các vị đang bàn luận chuyện gì khi ngồi tại đó.

Tăng Chúng trình với Ngài, Ngài đáp: Này các Tỳ Kheo, tình bạn này chỉ trong một đời sống chẳng có gì kỳ lạ cả, vì các bậc Trí Nhân ngày xưa đã giữ được tình bằng hữu vững bền suốt qua cả ba bốn đời sống.

Nói vậy xong, Ngài kể cho Tăng Chúng nghe một chuyện quá khứ. Một thuở nọ, trong Quốc Độ Avanti, tại Kinh Thành Ujjeni, có vị Đại Vương trị vì mệnh danh là Vua Avanti.

Thuở ấy một làng Candàla Chiên Đà La: Vô loại, hạ đẳng ở ngoại thành Ujjeni là nơi bậc Đại Sĩ ra đời. Một người khác sinh làm con trai của bà dì Ngài. Một cậu bé tên là Citta, cậu kia tên là Sambhùta.

Khi hai cậu bé lớn lên và đã học được nghề quét bằng chổi trong dòng họ Chiên Đà La rồi, liền nghĩ rằng hai cậu sẽ đi trình diễn nghề này tại cổng thành. Vì thế một cậu biểu diễn tại Bắc Môn, một cậu tại Đông Môn.

Bấy giờ trong Kinh Thành này có hai phụ nữ giỏi nghề xem tướng, một cô là con gái một thương nhân, và cô kia là con một Tế Sư. Hai cô gái ấy đi vui chơi trong công viên, sau khi bảo gia nhân đem theo thực phẩm đủ loại cứng, loại mềm, vòng hoa hương liệu, thì ngẫu nhiên một cô đi ra cổng Bắc, và một cô ra cổng phía Đông.

Khi thấy hai thanh niên Chiên Đà La đang biểu diễn tay nghề, hai cô hỏi: Chúng là ai đây?

Rồi hai cô được cho biết đó là hai kẻ Chiên Đà La.

Hai cô bảo: Thấy điềm này xui xẻo lắm.

Và sau khi rửa mắt bằng nước hương thơm, cả hai đều đi về.

Sau đó, đám dân chúng la lớn: Này bọn hạ đẳng tồi tàn kia, chúng bay đã làm chúng ta mất phần cơm rượu đáng lẽ được hưởng miễn phí đấy!

Chúng đánh đập hai anh em cùng họ ấy một trận nhừ tử, làm cả hai đau đớn ê chề. Khi hai người tỉnh dậy liền đi tìm nhau và kể cho nhau nghe tai họa đã đến cho mình, rồi lại kêu gào và cố nghĩ cách xem phải làm gì đây.

Cả hai suy nghĩ: Tất cả việc khốn nạn này đã giáng xuống chúng ta chỉ vì dòng giống ta sinh ra. Ta sẽ chẳng bao giời làm kẻ Chiên Đà La nữa, mà ta phải dấu tung tích dòng họ để rồi đi tới Takkasilà, giả dạng các nam tử Bà La Môn và học tập tại đó.

Sau khi quyết dịnh như vậy, cả hai đến chỗ đó, theo đòi học tập với một Giáo Sư danh tiếng lẫy lừng. Thiên hạ đồn vang khắp cõi Diêm Phù Đề Ấn độ rằng có hai nam tử Chiên Đà La đang làm thư sinh và giấu diếm tung tích gia tộc mình. Bậc Trí Nhân Citta học tập thành công, song chàng Sambhùta thì không được như thế.

Một ngày kia có người dân làng mời vị Giáo Sư ấy với ý định cúng dường thực phẩm cho các Bà La Môn. Bấy giờ do ngẫu nhiên mưa suốt đêm ấy làm ngập lụt mọi hang hốc trên đường đi.

Sáng sớm hôm sau, vị Thầy Giáo gọi Trí Giả Citta vào và bảo: Này con, hôm nay thầy không đi được, vậy con đi cùng các nam tử kia, rồi làm lễ chúc phước lành và khi con ăn thực phẩm của mình xong, hãy mang về những món để dành cho thầy. Do đó, Ngài đem các thanh niên Bà La Môn khác cùng lên đường.

Trong khi các thanh niên tắm rửa và súc miệng, dân chúng dọn món cháo gạo đã chuẩn bị sẵn sàng để mời khách quý và bảo: Để cho nó nguội đi. Trước khi cháo nguội, đám thanh niên đã đến ngồi xuống. Dân chúng dâng nước cúng dường, rồi đặt các bát cháo trước mặt họ. Trí óc Sambhùta có hơi trì độn, nên tưởng cháo đã nguội, liền múc một hớp bỏ vào miệng, song nó làm chàng nóng bỏng như cục sắt nóng đỏ.

Trong lúc đau đớn, chàng quên mất vai trò của mình, liền liếc qua Bậc Hiền Trí Citta và nói bằng ngôn ngữ của dân Chiên Đà La: Cháo nóng quá phải chăng?

Chàng kia quên mất bản thân mình, nên đáp lại theo ngôn ngữ của họ: Nhổ ra, nhổ ra mau!

Nghe thế, đám thanh niên nhìn nhau bảo: Loại ngôn ngữ gì thế này?

Lúc ấy bậc Trí Giả Citta nói lời chúc lành cho tất cả. Khi các chàng trai kia về nhà, họ tụ tập thành tụm năm túm ba và ngồi bàn luận về những từ ngữ đã được dùng kia.

Khi nhận ra đó là ngôn ngữ của bọn Chiên Đà La, họ kêu to: Quân hạ đẳng tồi tàn kia! Chúng bay đã lừa dối cả bọn ta lâu nay, cứ giả dạng làm Bà La Môn! Rồi họ đánh đập hai vị ấy.

Có một người tốt bụng xua đuổi họ ra và nói: Đi ngay! Vết nhục nằm trong huyết thống kia.

Phải đi ngay! Đến đâu đó mà làm Ẩn Sĩ khổ hạnh!

Rồi các thanh niên Bà La Môn trình với thầy giáo rằng, đấy là hai kẻ Chiên Đà La giả dạng. Hai chàng đi vào rừng sống đời sống khổ hạnh tại đó, sau một thời gian chết đi, tái sanh làm hai chú nai con bên bờ sông Nerañjarà Ni liên thuyền.

Từ lúc sinh ra, chúng luôn luôn ở bên nhau. Một ngày kia, sau khi chúng ăn xong, một người thợ săn chợt thấy chúng dưới một gốc cây đang ngồi nhai lại, âu yếm vuốt ve nhau rất hạnh phúc, đầu sát đầu, mõm kề mõm, sừng bên sừng. Gã liền phóng lao tới, giết trọn luôn cả hai bằng nhát lao ấy.

Sau đó chúng tái sanh làm con của chim Ưng biển trên bờ Nerbudda Niết Bút. Cũng tại đó, chúng lớn lên sau khi ăn xong lại ôm ấp đầu sát đầu, mỏ kề mỏ. Một kẻ bẫy chim trông thấy, bắt cả hai và giết đi.

Sau đó bậc Trí Giả tái sanh tại Kosambi, làm con vị Tế Sư, còn bậc Trí Sambhùta tái sanh làm Vương Tử của Vua Uttarapañcala. Ngay từ ngày được đặt tên, hai hài nhi ấy đã có khả năng nhớ lại các đời trước của mình.

Song Sambhùta không thể nào nhớ hết tất cả mà không bị gián đoạn, và cậu chỉ nhớ đời thứ tư hoặc đời Chiên Đà La thôi, còn Citta lại nhớ đủ cả bốn đời theo thứ tự.

Khi Citta được mười sáu tuổi, chàng xuất gia làm Ẩn Sĩ khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, tu tập làm phát khởi thắng trí do thiền định và an trú trong hỷ lạc thiền định.

Còn bậc Trí Giả Sambhùta, sau khi Phụ Vương băng hà, liền được phong chiếc lọng trắng trên đầu vào ngày phong Vương kia, giữa Quần Thần đông đảo, Ngài làm một bài ca tức vị, rồi rung cảm ngâm lên hai đoạn.

Khi Quần Thần nghe xong, đám cung phi và nhạc công đều ca hát, bảo nhau: Đây là khúc đăng quang của đức Chúa Thượng chúng ta!

Và dần dà với thời gian, dân chúng đều ca khúc hát ấy vì đó là Thánh Đạo ca được Vua yêu thích. Bậc Trí Giả Citta đang an trú ở vùng Tuyết Sơn, tự hỏi không biết hiền đệ Sambhùta của Ngài đã được giương chiếc lọng che ấy chưa.

Khi nhận thấy việc đã xong, Ngài suy nghĩ: Ta chẳng bao giờ đủ sức giáo hóa một vị Tân Vương còn trẻ, song khi nào em ta già rồi, ta sẽ đến thăm và khuyên nhủ em ta đi làm Ẩn Sĩ khổ hạnh.

Suốt năm mươi năm Ngài không hề đi thăm viếng, và trong thời gian ấy, Vua có đông con cái lên dần. Về sau nhờ thần lực của Ngài, Trí Giả Citta phi hành đến vườn ngự uyển đáp xuống, ngồi trên bảo tọa nghi lễ như một bức tượng bằng vàng.

Vừa lúc ấy, một chàng trai kiếm củi, vừa làm việc vừa hát khúc đạo ca ấy. Bậc Trí Giả Citta gọi chàng trai lại gần, chàng tiến đến đảnh lễ cung kính rồi đứng chờ.

Trí Giả Citta bảo chàng: Từ sáng đến giờ, cậu chỉ hát mãi khúc đạo ca ấy, thế cậu không biết khúc nào nữa chăng?

Thưa Tôn Giả, có chứ, con biết nhiều khúc ca lắm, song đây là những lời ca được Đức Vua yêu chuộng, vì thế con không hát khúc nào khác.

Thế không có ai biết hát một điệp khúc đáp lại khúc ca của Đức Vua chăng?

Thưa Tôn Giả, con biết hát nếu con được dạy khúc ca ấy. Thế thì được, hễ khi nào Đức Vua hát hai khúc trên, thì cậu hát khúc này làm khúc thứ ba đấy.

Rồi Ngài ngâm một khúc và bảo: Bây giờ cậu hãy đi hát khúc này trước Đức Vua, Ngài sẽ hài lòng và quý trọng cậu lắm. Chàng trai vội vàng chạy về tìm mẹ, bảo mẹ mặc cho chàng y phục thật tề chỉnh rồi đến cửa cung Vua, nhờ người tâu lên rằng có một chàng trai xin được yết kiến để hát một khúc ca đáp lời Đức Vua.

Vua bảo: Cho nó vào.

Khi chàng trai tiến lên, đảnh lễ Ngài xong, Vua phán: Chúng tâu rằng cậu muốn hát một khúc đáp lời trẫm có phải chăng?

Chàng trai đáp: Tâu Chúa Thượng, đúng vậy, xin Ngài triệu tập Quần Thần để cùng nghe.

Ngay khi Triều Đình tụ họp xong, chàng tâu: Tâu Chúa Thượng, xin Chúa Thượng ca khúc hát của Ngài trước, rồi thần sẽ xin hát lời đối lại.

Vua liền ngâm đôi vần kệ:

Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,

Không nghiệp gì không có quả sinh,

Chẳng có việc lành nào uổng phí:

Sambhù, ta thấy, lớn lên thành

Hùng cường, vĩ đại và như thế

Công đức Ngài đem đến quả lành

Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,

Không nghiệp gì không có quả mang,

Chẳng có việc lành nào uổng phí:

Citta ai biết, có vinh quang

Giống như phần trẫm, tâm hiền hữu

Có được an vui lợi lạc chăng?

Khúc đạo ca trên Vua chấm dứt, chàng trai liền đáp vần thứ ba:

Thiện nghiệp chóng chầy đều đạt quả

Nghiệp nào mà chẳng quả lai sinh,

Không gì vô ích tâu Hoàng Thượng,

Xin ngắm Citta tại cổng thành,

Chẳng khác Quân Vương, tâm vị ấy

Đã đem hỷ lạc đến cho mình.

Nghe lời này Vua lại ngâm vần kệ thứ tư:

Vậy có phải chăng chính Citta,

Hay chàng nghe được chuyện ngày xưa

Từ Ngài, hay một người nào khác?

Ôi ngọt ngào thay khúc Thánh Ca!

Ta chẳng sợ gì, ta sẽ thưởng

Ngôi làng hay tặng vật làm quà.

Tiếp theo chàng trai ngâm vần kệ thứ năm:

Hạ thần nào có phải Citta,

Song chuyện ấy thần được biết qua,

Chính một Hiền Nhân vừa dạy bảo:

Đi ngâm lời hát đối dâng Vua,

Rồi chàng sẽ được Ngài ban thưởng,

Tay của Ngài ân nghĩa đậm đà.

Nghe lời này, Vua suy nghĩ: Chắc hẳn đó là hiền huynh Citta của ta rồi, ta muốn đi tìm Ngài ngay.

Thế là Vua ra lệnh cho quần thần qua hai vần kệ sau:

Các Vương xa hãy thắng yên cương,

Chạm trổ tinh vi, đẹp tuyệt trần,

Đem buộc cân đai vào bảo tượng,

Điểm trang vòng cổ sáng huy hoàng.

Quần Thần hãy đánh trống Liên Hoan,

Bảo thổi tù và ốc dậy vang,

Chuẩn bị Vương xa nhanh bậc nhất

Bởi vì trẫm muốn sớm lên đàng

Hôm nay tìm thảo am cô tịch,

Yết kiến Hiền Nhân trước tọa sàng.

Vua nói vậy xong, liền ngự lên Vương xa lộng lẫy và vội vàng đến ngay cổng ngự viên.

Tại đó Ngài dừng xa giá và đến gần Hiền Giả Citta, đảnh lễ rất cung kính rồi ngồi xuống một bên, lòng tràn ngập hân hoan, Ngài ngâm vần kệ thứ tám:

Thật quý thay là Thánh khúc xưa,

Trẫm từng ca hát thật say sưa,

Trong khi dân chúng đông dồn dập,

Quần tụ chung quanh chật cả nhà.

Nay đến đây xin chào Thánh Giả,

Hân hoan, hạnh phúc ngập tâm ta.

Từ lúc tái ngộ Hiền Giả Citta, Vua hoan hỷ ra lệnh làm mọi sự cần thiết và truyền chuẩn bị bảo tọa dành cho vị hiền huynh, rồi Ngài ngâm vần kệ thứ chín:

Tọa sàng, nước mát rửa bàn chân,

Đúng pháp là đem lễ cúng dâng,

Thực phẩm dành cho nhiều khách quý,

Xin hiền huynh nhận, trẫm ân cần.

Sau lời mời ngọt ngào này, Vua ngâm vần kệ khác để tặng bạn hiền một nửa giang san của mình:

Bảo làm cho nhộn nhịp tưng bừng,

Nơi chốn hiền huynh sẽ trú thân,

Truyền đem nữ tỳ theo phục vụ,

Ôi, ta muốn tỏ với Hiền Nhân

Lòng ta yêu quý Ngài tha thiết,

Xin hãy cùng ta ngự trị dân.

Khi nghe những lời này, bậc Trí Giả Citta thuyết giáo cho Vua qua sáu vần kệ:

Hỡi Đại Vương, nhìn quả ác hành,

Thấy bao lợi lạc thiện hành sinh,

Ta mong điều ngự thân tu tập,

Con, của không lôi cuốn trí mình.

Trăm năm tròn cuộc sống người đời,

Năm tháng theo nhau kế tiếp trôi,

Khi đến hạn kỳ, người héo úa,

Tựa hồ lau sậy nát tan thôi.

Thế nghĩa gì hoan lạc, ái ân,

Nghĩa gì săn đuổi cảnh giàu sang?

Nhiều con, nghĩa lý gì?

Nên biết,

Hỡi Đại Vương, ta thoát buộc ràng.

Ta biết, vì đây chính thật chân,

Ta không qua khỏi tử ma thần,

Nghĩa gì vàng bạc và ân ái,

Khi bạn đến thời phải mạng vong?

Giòng giống hạ đẳng bước hai chân,

Hạ liệt Chiên Đà nhất thế nhân,

Khi nghiệp chín làm phần thưởng quý,

Hai ta cùng có một Tiền Thân:

Tại A van, bạn trẻ Chiên Đà,

Là cặp nai vàng bến nước xưa,

Đôi chú chim ưng bờ Niết Bút,

Giờ đây giáo sĩ, đó làm Vua.

Sau khi đã nói rõ các tiền thân hạ liệt của mình trong quá khứ như vậy, tại đây trong đời hiện tại này, Ngài tuyên thuyết tính vô thường của mọi pháp hữu hình và ngâm bốn vần kệ làm phát khởi tinh tấn lực.

Đời người ngắn ngủi chết cùng đường,

Già cả không nơi chốn náu nương,

Này hỡi Pãncala, thực hiện,

Những gì ta khuyến nhủ Quân Vương:

Tránh xa tất cả hành vi ác,

Đưa đẩy vào đau khổ đoạn trường.

Đời người ngắn ngủi, chết sau cùng,

Già cả không nơi chốn trú thân.

Này hỡi Pãncala, thực hiện

Những gì ta khuyến nhủ Quân Vương:

Tránh xa tất cả hành vi ác

Đưa đẩy vào trong hạ ngục tầng.

 Nhân thế ngắn sao, chết cuối cùng,

Người già không chốn để nương thân,

Pãncala hỡi, xin thành tựu

Những việc ta khuyên nhủ Đại Vương:

Xin hãy xa lìa bao vọng nghiệp,

Nhiễm ô toàn ác dục tham sân

Đời người ngắn ngủi, chết vong thân,

Bệnh, lão làm suy thế lực dần,

Ta chẳng làm sao ra thoát được.

Pañcala thực hiện lời răn:

Tránh xa tất cả hành không thiện

Đưa đẩy vào trong ngục hạ tầng.

Vua rất hoan hỷ khi nghe bậc Đại Sĩ khuyến giáo, liền đáp lời qua ba vần kệ:

Lời kia, Tôn Giả, quá toàn chân,

Ngài dạy lời như bậc Thánh Nhân,

Song dục tham ta đều khó bỏ,

Với người như trẫm, chúng vô cùng.

Như voi chìm xuống vũng bùn nhơ,

Không thể bò lên, dẫu thấy bờ,

Trẫm cũng lún sâu bùn dục lạc,

Nên không theo nổi đạo thầy tu!

Như mẹ như cha dạy bảo con,

Thành người sống hạnh phúc, hiền lương,

Dạy ta hạnh phúc làm sao đạt,

Xin chỉ cho ta bước đúng đường.

Sau đó bậc Đại Sĩ bảo nhà Vua:

Ngài không thể bỏ, hỡi Quân Vương,

Các dục tham đây cũng thế thường:

Vậy chớ bắt dân nhiều thuế nặng,

Trị sao dân chúng thấy công bằng

Gửi sứ thần đi khắp bốn phương,

Mời người khổ hạnh, Bà La Môn,

Cúng dường thực phẩm, nhà an nghỉ,

Xiêm áo và luôn mọi thứ cần.

Đem thức ăn uống để đãi đằng

Bà La Môn, Thánh Giả, Hiền Nhân,

Tâm đầy thành tín, ai ban phát,

Và trị dân tài đức hết lòng,

Người ấy sẽ đi lên thượng giới,

Lỗi lầm không có, lúc vong thân.

Song nếu vây quanh bởi má hồng,

Dục tham, Ngài thấy, quá say nồng,

Trong tâm hãy nhớ vần thi kệ,

Và hát hò lên giữa đám đông.

Dưới Trời không mái để che thân,

Bầy chó xưa cùng nó ngủ lăn,

Mẹ nó cho ăn lúc bước vội,

Mà nay làm một vị Vương quân.

Đó là lời khuyến giáo của bậc Đại Sĩ.

Rồi Ngài lại bảo: Ta đã khuyên nhủ Đại Vương rồi. Bây giờ Đại Vương có muốn làm người tu khổ hạnh hay không là tùy ý Đại Vương, song ta sẽ tiếp tục theo đúng nghiệp quả của chính ta làm.

Sau đó Ngài bay vụt lên không, phủi bụi bặm trên đôi chân Ngài, giã từ Vua trong dáng điệu khinh thường, rồi đi về vùng Tuyết Sơn.

Còn phần Vua trông thấy cảnh này, lòng vô cùng xúc động, liền giao Quốc Độ cho Thái Tử, triệu tập quân sĩ thẳng hướng tiến về vùng Tuyết Sơn.

Khi bậc Đại Sĩ nghe Vua đến, liền bước ra cùng đám Hiền Nhân đồ đệ của Ngài đón tiếp Vua, và truyền giới cho Vua sống đời phạm hạnh rồi dạy Vua phương tiện làm phát khởi thiền định. Vua tu tập chứng đắc thắng trí do thiền định, vì vậy cả hai vị đều cùng được sinh lên Cõi Phạm Thiên.

Sau khi bậc Đạo Sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo: Như vậy, này các Tỳ Kheo, các bậc trí nhân ngày xưa giữ vững tình bằng hữu lâu dài qua ba bốn đời sống.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân: Vào thời ấy, Ànanda là Trí Giả Sambhùta và ta chính là Trí Giả Citta.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần