Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Một - Phẩm Vô Thường - Tập Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu

PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU

Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM MỘT

PHẨM VÔ THƯỜNG  

TẬP NĂM  

Thuở ấy Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ.

Đức Phật bảo các Thầy Tỳ Kheo: Có bốn hạng người đêm ngủ ít mà thức nhiều, bốn hạng đó là:

Gái nhớ trai, đêm ngủ ít mà thức nhiều.

Hai là trai nhớ gái, đêm ngủ ít mà thức nhiều.

Ba là kẻ trộm, đêm ngủ ít mà thức nhiều.

Bốn là Tỳ Kheo tu tập thiền định siêng tu chánh pháp, đêm ngủ ít mà thức nhiều.

Thuở Đức Phật ngự tại Kỳ Hoàn A Na Luật mân a lam, thuộc thành Xá Vệ, có một vị Phạm Chí nhờ tạo lập công đức đời trước, cơ duyên được độ đã đến, ông ấy chợt nghe câu kệ: Ngu sinh tử dài, nhưng vị Phạm Chí này có nhiều tài sản vật báu, tôi tớ hầu hạ, gia nghiệp đầy đủ, thê thiếp xinh đẹp bâc nhất trên đời, dung nhan không hề khiếm khuyết.

Bấy giờ vị Phạm Chí suy nghĩ: Ta nên đến chỗ Như Lai, hỏi rằng đời vị lai có bao nhiêu vị Phật.

Sau khi ra khỏi thành, vị Phạm Chí đến Tinh Xá Kỳ Hoàn, tới chỗ Đức Phật, ông thưa hỏi rồi đứng sang một bên, chắp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn, con có điều muốn hỏi, nếu Thế Tôn cho phép con mới dám trình bày.

Đức Thế Tôn bảo: Ông cứ tự nhiên hỏi, Như Lai sẵn sàng giải đáp.

Vị Phạm Chí thưa: Bạch Đức Thế Tôn, đời tương lai sẽ có bao nhiêu vị Phật ra đời?

Đức Thế Tôn trả lời: Đời tương lai các Đức Phật sẽ ra đời nhiều như cát sông Hằng.

Nghe Đức Phật nói vậy, vị Phạm Chí chiêm ngưỡng Đức Phật, trong lòng vô cùng vui mừng hớn hở, phát sinh tâm lành: Các Đức Phật ở tương lai nhiều như cát Sông Hằng, ta ở trong pháp của các Đức Phật ấy tu phạm hạnh, làm các công đức, phước lành không mệt mỏi.

Hiện nay có nhiều của cải vật báu, kẻ hầu người hạ, gia nghiệp đầy đủ. Vợ con xinh đẹp không hai trên đời. Nay ta nên lập đàn bố thí gia nghiệp này. Ai xin gì cho nấy, không trái ý muốn của họ. Vị Phạm Chí nghe Phật khuyên dạy xong, đi quanh Phật ba vòng rồi chắp tay chào từ biệt ra về.

Trên đường về chưa được bao xa thì Phạm Chí chợt nghĩ: Lúc nãy ta chỉ hỏi Phật về các Đức Phật đời vị lai mà quên hỏi các Đức Phật đời quá khứ. Bây giờ ta phải trở lại chỗ Thế Tôn để hỏi về các Đức Phật đời quá khứ.

Vị Phạm Chí liền trở lại chỗ Đức Phật, thưa hỏi rồi đứng sang một bên, bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, đời quá khứ có bao nhiêu Đức Phật?

Đức Phật bảo: Các Đức Phật ở đời quá khứ nhiều như cát sông Hằng.

Nghe vậy, vị Phạm Chí quỳ trước Phật buồn khóc, than rằng: Con bị sinh tử ngu si trói chặt lâu dài, nên không được gặp hằng sa Chư Phật.

Ôi đó là khổ gì?

Rồi ông gieo mình vật vã tự trách: Ấy là bởi con sống đời buông lung không có cội gốc chắc thật khiến con mãi là phàm phu, hoặc ở trong cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ đêm dài với núi đao, rừng kiếm, xe lửa, lò than, hay bị đè bẹp dưới núi Tuyết, hết kiếp mới được thoát khỏi, hoặc ở trong địa ngục lửa cháy chịu đau khổ vô lượng. Tuy được sinh lên làm người nhưng lại sinh ở vùng biên địa, nên dù có Phật ra đời cũng không được gặp.

Trước đây có thầy Tỳ Kheo dạy con rằng: Ngu si sống trong đêm dài sinh tử, lời ấy quả là chân thật.

Nay con hết lòng quy y Như Lai và cũng quy y đối với Chư Phật tương lai. Con thấy ruộng vườn, vợ con đều là cái bên ngoài, tại sao mình lại tham đắm nó mà bỏ mất lời dạy của Bậc Thánh.

Lúc bấy giờ vị Phạm Chí cung kính chắp tay, quỳ thẳng trước Phật mà bạch: Cúi xin Đức Thế Tôn cho phép con nhập đạo, được tu phạm hạnh.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Các vị hãy dạy trao oai nghi độ cho vị Phạm Chí này làm Tỳ Kheo.

Vị ấy thọ giáo liền được độ làm Sa Môn. Sau đó, vị Tỳ Kheo này ở nơi thanh vắng suy nghĩ so lường sự tu tập của các Bậc Thượng Nhân.

Cho nên người thuộc dòng họ cao quý đi xuất gia học đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia với lòng tin vững chắc, tu phạm hạnh cao thượng, giữ thân lập chứng để tự an vui, sinh tử đã chấm dứt, phạm hạnh đã xong, việc phải làm đã làm, không còn thọ thân nữa. Biết rõ như thật, đạt được đạo quả, chứng quả A La Hán trong cảnh giới vô dư.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn quán sát nghĩa này, suy nghĩ gốc ngọn, muốn cho các Tỳ Kheo mau được diệt độ, vì chúng sinh đời sau mà hiện bày chánh pháp sáng tỏ, làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian này, nên Thế Tôn nói lại cho Phạm Chí bài kệ này:

Đêm dài mất ngủ

Đường xa mỏi mệt

Ngu sinh tử dài

Không biết chánh pháp.

Không thể cậy con

Hay cậy cha anh

Bị chết vây ngặt

Chẳng nhờ ai được.

Thuở ấy Đức Phật ngự trong Tinh Xá Thạch thất, ở phía Bắc Đạo Tràng vườn Lam Lê, thuộc nước Ma Kiệt Đà. Lúc ấy, có một chàng thanh niên chuẩn bị ghe thuyền theo người dẫn đường ra biển tìm châu báu. Những kẻ ít vốn cũng dong thuyền cùng đi. Họ bố thí thức ăn cho kẻ nghèo, Sa Môn, Bà La Môn.

Họ ra biển tìm được nhiều châu báu, trở về được bình yên, cùng nhau vui chơi, ăn uống vui vẻ mỗi ngày không dứt. Nhưng trong số ấy, có một chàng trai ăn uống hẩm hút, chỉ ăn gạo rang mà thôi, không thay đổi nếp sống hằng ngày của mình. Nhưng anh ta lại là người tìm được nhiều tài sản vật báu vô lượng.

Lúc ấy, người dẫn đường bảo anh ta: Hiện nay anh là người có nhiều châu báu nhất, ít ai sánh bằng, vì sao anh ăn xài đạm bạc khốn khổ như vậy?

Người ta sống trên đời này, phải thực hành hai việc là bố thí và ăn uống.

Nghe vậy, anh này không chấp nhận lại sinh oán hận, lo buồn.

Anh nói với người dẫn đường rằng: Nếu tôi ăn xài thì còn đâu để nuôi vợ con.

Về sau, anh gặp bệnh ngặt nghèo, chẳng về đến nhà được mà phải bỏ mạng giữa đường.

Người dẫn đường kia bèn nói bài kệ:

Phàm kẻ bỏn sẻn

Chất chứa tiền của

Gây nên oán thù

Dè đâu chết đến.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn dùng thiên nhãn thanh tịnh không tí bợn nhơ thấy người thanh niên đi tìm châu báu chết giữa đường.

Do sự việc ấy, Đức Thế Tôn quán sát nghĩa, suy nghĩ ngọn nguồn, giúp cho các Tỳ Kheo thị hiện diệt độ, vì các chúng sinh đời sau mà thị hiện chánh pháp sang suốt, tồn tại lâu dài trên thế gian, nên Phật nói bài kệ:

Không thể cậy con

Hay là cha anh

Bị chết vây ngặt

Chẳng nhờ ai được.

Lúc ấy đại chúng nghe Đức Phật nói kệ xong, tâm ý đều mở tỏ, hăng hái lập công tu đức, cứu giúp người nghèo thiếu, trì trai giữ giới, ba tháng trường trai hằng năm không hề sai chạy, bốn việc cúng dường như y phục, cơm gạo, giường ghế, đồ nằm, thuốc men chăm sóc bệnh nhân.

Ai cần quần áo thì cho quần áo, cần thức ăn cho thức ăn, bảy thứ vật báu như vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, trân châu, hổ phách, ai xin gì cho nấy không trái ý họ. Những vị từ xa đến ở lâu hay ở qua đêm đều được cung cấp đầy đủ. Cả đến hương hoa, đồ trang sức cũng ban cho mà không chút tiếc rẻ.

Vô số đại chúng chán ngán sự sinh tử, dứt bỏ tham đắm, chấp trước, tín tâm vững chắc, xuất gia tu đạo, tu pháp tăng thượng không hề lui sụt, rồi lần lượt chứng được quả A La Hán.

Trăm ngàn chẳng một

Dòng dõi gái trai

Chất chứa của cải

Rồi đều tan biến.

Người sống trên đời, bôn ba rong ruổi khắp nơi, tiền của, long ham muốn không biết thỏa mãn, dù nắng hè thiêu đốt, giá rét ngày đông, đói khát khổ đau, khốn khó lo buồn, được một mất muôn, vậy mà vẫn cảm thấy vui. Họ làm hết mình nhưng khó đạt kết quả, tâm ý không mở tỏ.

Đã không dám ăn tiêu, cũng không bố thí cho ai, dù của cải tràn đầy, cũng không khác gì kẻ nghèo thiếu. Còn người ngồi thiền dù đem bảy báu trang sức, tuy mắt nhìn thấy, nhưng lòng không vui. Bởi tâm bỏn sẻn keo kiệt nên trôi lăn trong sinh tử, hết đời này qua đời khác.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn dùng thiên nhãn trong sạch không tí bợn nhơ thấy chúng sinh rong ruổi khắp nơi tham cầu tiền của, không biết nghĩ đến ngày mai, ấy đều là do si mê, thấy biết sai lầm.

Do sự việc trên, Đức Thế Tôn quán xét ngọn nguồn, dẫn dắt chúng Tỳ Kheo đến với pháp mầu, cũng vì chúng sinh đời sau thị hiện chánh pháp sáng rỡ, làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian, được ba đời Chư Phật hộ trì, nên Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Trăm ngàn chẳng một

Dòng dõi gái trai

Chất chứa của cải

Rồi đều tan biến.

Bấy giờ, cả mấy ngàn muôn người trong hội chúng nghe lời Phật dạy, lắng tâm, nghe nhận, tùy theo sự ghi nhớ mà được thành quả chứng.

Thường rồi cũng hết

Cao rồi cũng rơi

Hợp phải có tan

Sinh phải có chết.

Thuở ấy Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ.

Lúc đó, có một vị Phạm Chí lạ đến chỗ Đức Phật chào hỏi xong, ngồi qua một bên, thưa Đức Phật: Con có điều muốn hỏi, xin Đức Thế Tôn cho phép.

Đức Phật bảo: Ông cứ tự nhiên hỏi, Như Lai sẽ giải thích.

Vị Phạm Chí bạch Phật: Bạch Thế Tôn, vì sao mà chúng sinh đời này chuyển sang mỏng manh rồi thành tổn giảm?

Ở thế gian không được hưng thịnh như vậy?

Đức Phật bảo Phạm Chí: Có ba nguyên nhân khiến chúng sinh chuyển sang mỏng manh, rồi thành tổn giảm, làm cho thế gian không thịnh vượng nữa.

Ba nguyên nhân ấy là gì?

Chúng sinh đời nay tham dục, không giữ đạo đức, bỏn sẻn chấp chặt, quen theo tà kiến điên đảo. Chúng sinh này bị ba điều ấy làm ô nhiễm, gió mưa trái mùa, tai ương khí độc lan tràn, ngũ cốc mất mùa, hư hại không gặt hái được. Thức ăn của họ dù chin hay sống chứa đầy mầm bệnh tật lan tràn, khiến người chết chật đường không thể kể hết. Này Phạm Chí, đó là là nguyên nhân thứ nhất.

Nguyên nhân thứ hai khiến chúng sinh đời nay chuyển sang mỏng manh, rồi thành tổn giảm như vậy, khiến đời sống không thịnh vượng, rồi gió mưa trái mùa, tai ương khí độc lan tràn, ngũ cốc mất mùa, hư hại không gặt hái được. Không đến ngày chín, nầm non không sinh, khiến nhân dân đói khổ, chết chóc quá nhiều.

Này Phạm Chí, đó là nguyên nhân thứ hai.

Nguyên nhân thứ ba khiến chúng sinh đời nay chuyển sang mỏng manh, rồi thành tổn giảm, khiến đời sống không thịnh vượng.

Lại nữa, này Phạm Chí, như hiện nay trong nước Vua tham dục, không giữ đạo đức, bỏn sẻn chấp chặt, lại quen theo tà kiến sai lầm, cai trị nhân dân không đúng luật pháp, tranh giành đất đai vô độ, mang quân đến biên giới đánh nhau, gây tổn thất cho nhau, gươm giáo cung tên bắn nhau, sát hại vô số không thể kể xiết. Này Phạm Chí, đó là nguyên nhân thứ ba.

Ba nguyên nhân ấy khiến cho chúng sinh mắc phải tai ương, đói khổ lan tràn, chém giết vô đạo.

Nói xong, Đức Phật bảo Ngài Mục Liên: Lưng Ta đau, cần phải về tịnh thất nghỉ. Ông nên bàn luận với vị Phạm Chí này, để người đến dự hội, dứt hết thắc mắc.

Ngài Mục Liên đáp: Xin vâng, bạch Đức Thế Tôn.

Lúc ấy Đức Thế Tôn xếp Y Tăng Già Lê, Lấy Y Uất Đa La gối đầu, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, buộc niệm trong sự sáng suốt.

Bấy giờ, Ngài Mục Liên nói với Phạm Chí: Ngài nên lắng nghe và khéo suy nghĩ.

Phạm Chí đáp: Tôi rất muốn nghe.

Ngài Mục Liên nói bài kệ:

Hãy xem đất nước này

Và các loại cây trái

Sông phát nguồn từ núi

Sông biển chảy không ngừng.

Người xưa cố gìn giữ

Nhưng nay họ đâu rồi?

Xin quay bánh xe pháp

Chỉ rõ cho Trời người.

Nào ai ưa sự chết

Rốt cuộc họ về đâu?

Muốn tìm người xưa cũ

Nay nào thấy một ai?

Nói rộng như văn xưa. Phạm Chí nghe xong tâm ý mở tỏ, đi trên vết đạo mầu.

Cho nên lời kệ trên nói:

Thường rồi cũng hết

Cao rồi cũng rơi

Hợp phải có tan

Sinh phải có chết.

Bài kệ này nói lên ý nghĩa vừa nói.

Thuở ấy, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc thành Xá Vệ. Lúc ấy, có một người đàn bà góa vừa chết đứa con. Bà buồn bã sầu khổ, bàng hoàng điên dại, không còn biết gì, giống như người khùng. Bà ra khỏi thành đến Tinh Xá Kỳ Hoàn vì bà nghe người ta nói Phật là vị Đại Thánh được Trời người tôn kính, Ngài giảng Kinh nói pháp làm cho người ta trút sạch nỗi khổ sầu. Ngài nhìn thấy tất cả và thông suốt tất cả.

Vì thế người đàn bà góa này bèn đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ, quỳ thẳng, bạch Phật: Thưa Ngài, con vốn hiếm muộn, chỉ có một đứa con, thế rồi bất thần bị bệnh nặng, bỏ mẹ ra đi. Tình mẹ thương con quá nặng không chịu đựng nổi cảnh ấy. Cúi mong Ngài thương xót, rũ sức thần khai hóa cho con được hết nỗi sầu khổ.

Đức Phật bảo: Bà hãy mau vào thành, đi qua khắp các hang cùng ngõ hẻm, đến nhà nào chưa từng có ai chết mà xin tí lửa rồi đem về đây cho ta.

Nghe dạy như vậy, bà vui mừng hớn hở ra đi.

Vào thành Xá Vệ, ghé vào một con hẻm, rồi qua nhà nào bà cũng hỏi: Nhà ông chưa từng có ai chết phải không?

Tôi muốn xin tí lửa đem về cứu con tôi sống lại.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần