Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Pháp Hữu Hành Vô Hành - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH

BỒ TÁT ANH LẠC HIỆN TẠI BÁO

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM HAI MƯƠI BỐN

PHẨM PHÁP HỮU HÀNH  VÔ HÀNH  

PHẦN HAI  

Kính bạch Thế Tôn! Đó là pháp hữu hành bậc nhất. Nếu lại có các hàng thiện nam, thiện nữ, từ lúc bắt đầu đến cuối cùng đều an tọa ngay ngắn để tư duy về các pháp vô hình, chẳng còn thấy có sự phát sinh vì gốc không có manh mối, mọi danh hiệu đều là dối trá chẳng phải thật, chẳng phải có. Đấy nên gọi là pháp vô hành.

Trưởng Lão A Nhã Câu Lân lại thưa với Đức Phật: Kính bạch Thế Tôn! Như các vị thiện nam, thiện nữ nhận rõ về tuệ không, tâm dứt mọi vướng mắc về không, vì đối với không mà mong cầu không thì dấy tưởng điên đảo, đó là hữu hành. Như đối với tuệ không không sinh cấu nhiễm, không dấy vọng kiến cùng từng ấy ý tưởng, vì gốc nó là không gốc huống chi sẽ có hiện tại, đó là vô hành.

Kính bạch Thế Tôn! Lại nữa, nếu như các hàng thiện nam, thiện nữ thực hiện pháp định ý không tịch, tư duy về nẻo tuệ sáng, tâm được giữ vững bền chắc không hề tăng giảm, đó là hữu hành.

Nhận rõ sáu tình trong ngoài đều không có chủ thể, gốc không có sáu tình huống nay lại có thức?

Thức chẳng phải ba đời cũng không tham đắm ba cõi. Đó là vô hành.

Lúc này, Trưởng Lão A Nhã Câu Lân nói về pháp hữu hành, vô hành của Đại Bồ Tát xong liền đảnh lễ ngang chân Phật.

Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này vị Tộc Tánh Tử! Trưởng Lão đã tuyên giảng thông suốt pháp thâm diệu của Như Lai, thật là kỳ diệu, đặc biệt, chưa từng có! Trưởng Lão hãy trở lại chỗ ngồi của mình với mọi uy nghi như cũ.

Bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi Phất liền rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại pháp phục cho chỉnh tề, đến trước Đức Phật quỳ mọp chắp tay cung kính thưa: Kính bạch Thế Tôn! Con vốn ôm giữ mối hồ nghi đã lâu, hôm nay muốn được nêu hỏi, kính bạch Thế Tôn chỉ dạy đầy đủ.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Lành thay! Này vị Tộc Tánh Tử! Như muốn nêu bày điều mình muốn hỏi thì bây giờ thật là đúng lúc. Như Lai sẽ mỗi mỗi giải đáp rõ điều Tôn Giả hỏi.

Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa với Đức Phật: Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là hữu hành, vô hành?

Như Thế Tôn dạy, hiện đang tạo tác là hữu hành, gốc không là vô hành.

Nay xin hỏi Đức Như Lai, là từ hữu hành đến vô hành nên gọi là vô hành chăng?

Vì hữu hành là thường có, vô hành là thường không, nên mới gọi là vô hành chăng?

Như nói về hữu hành thì những điều mà Tôn Giả Đại Ca Diếp nêu bày về hữu hành là không có sai lầm.

Còn giả sử là vô hành thì là không thể ngôn giáo, làm sao dùng vô ngôn để làm pháp giáo hóa khiến trở thành ngôn giáo được?

Kính bạch Thế Tôn mỗi mỗi phân biệt rõ.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Này Tôn Giả Xá Lợi Phất! Thể tánh của hữu hành là không chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa: Kính bạch Thế Tôn! Thể tánh của hữu hành là không như không.

Đức Phật lại hỏi: Này vị Tộc Tánh Tử! Vậy thì tánh không của vô hành là thế nào?

Tôn Giả Xá Lợi Phất: Kính bạch Thế Tôn! Tánh không của vô hành tức là tánh không của hữu hành vậy.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Nếu như tánh không của vô hành tức là tánh không của hữu hành, thì sao Tôn Giả Đại Ca Diếp, như đã nêu bày, chỉ nói về hữu hành, không nói về hữu hành không, không nói về vô hành, cũng không nói về tánh không của vô hành?

Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa với Đức Phật: Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh không của hữu hành?

Thế nào là tánh không của vô hành?

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Tôn Giả hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ghi nhớ. Ta sẽ vì Tôn Giả mà diễn nói rõ hơn về ý nghĩa ấy.

Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa: Kính bạch Thế Tôn! Con xin cố gắng lãnh hội!

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Này vị Tộc Tánh Tử! Thân năm ấm do bốn đại thành tựu, rời bỏ nơi gốc sinh ra chúng sinh như vậy. Như nhận thức hình sắc bên ngoài, từ trong nhãn thức tự dấy lên phiền não, nhận rõ thức ấy là chẳng từ bên ngoài đến cũng không xuất phát từ bên trong, do thức phân biệt nên mới sinh ra mối lo ấy.

Này vị Tộc Tánh Tử! Ý ông nghĩ sao?

Pháp Giới của năm ấm là như thế chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa: Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Thảy do nhãn thức dấy lên các phiền não.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Này vị Tộc Tánh Tử! Ý ông nghĩ sao?

Như người có học thức tư duy về nhãn thức để phân biệt phiền não là gốc từ đâu đến và do đâu mà diệt, lại muốn biết được nơi chốn chứa giấu phiền não, điều ấy được chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa: Kính bạch Thế Tôn! Không thể được! Nhãn thức là vô hình không thể nhìn thấy được.

Đức Phật nói: Đúng như thế! Này Tôn Giả Xá Lợi Phất! Đó được gọi là tánh không của hữu hành. Lại nữa, nếu có các thiện nam, thiện nữ, ở nơi không lìa không, chẳng nhiễm thức không, tâm hoàn toàn dừng lặng không dấy tưởng chấp, im lặng dứt mọi ngôn từ, thì đấy được gọi là tánh không của vô hành.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Như các hàng thiện nam, thiện nữ tai nghe âm thanh bên ngoài, mũi thì ngửi hương, lưỡi thì nếm vị, đều từ bên ngoài. Thân thì nhận biết sự từng trải bên ngoài và nỗi vui bên trong. Ý pháp thì nhận rõ các hành bên ngoài. Tư duy về thức ấy không từ bên ngoài đến cũng chẳng xuất phát từ bên trong, do vọng phân biệt nên mới dấy khởi mối lo lắng.

Này vị Tộc Tánh Tử! Như thế thì pháp giới của năm ấm là như thế chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa với Đức Phật: Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Đấy là do thức pháp mà sinh các thứ phiền não.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Này vị Tộc Tánh Tử! Như người có học thức tư duy về pháp thức nhận rõ phiền não là từ đâu lại và do đâu mà diệt, lại muốn biết được nơi chốn chứa giữ phiền não, điều ấy được chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa: Kính bạch Thế Tôn! Không thể được! Pháp thức là vô hình không thể trông thấy.

Đức Phật nói: Này Tôn Giả Xá Lợi Phất! Đúng như vậy! Đó được gọi là tánh không của hữu hành.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Như các hàng thiện nam, thiện nữ ở nơi không xa lìa không, chẳng nhiễm thức không, ý hoàn toàn tịch tĩnh không dấy tưởng chấp, an nhiên dứt mọi lời, cũng không nêu bày giảng dạy, đó được gọi là tánh không của vô hành.

Đức Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất: Phàm tánh của các pháp là thường trụ không biến đổi, pháp khởi thì khởi, pháp diệt thì diệt. Khởi cũng không rõ do đâu mà khởi, diệt cũng không rõ do đâu mà diệt.

Như người có trình độ hiểu biết mà quan sát điều ấy thì cũng không thấy có khởi hay diệt, vì thế nên gọi là Như Lai gốc không. Như Lai là Bậc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác với mười tôn hiệu gồm đủ, vượt mọi ràng buộc của ba cõi, là bậc tôn quý bậc nhất trong Cõi Trời, Người.

Nếu có các hàng thiện nam, thiện nữ dốc tâm thọ trì đọc tụng pháp hữu hành, vô hành hết sức thâm diệu ấy, là gốc của các pháp, thì liền đạt được đầy đủ mọi hình tướng trí tuệ giác ngộ.

Lúc Đức Phật nói về pháp hữu hành, vô hành này xong thì có tới trăm ức na thuật chúng sinh thảy đều rời bỏ hành gốc để phát thệ nguyện kiên cố dốc tiến tới Phật thừa không hề thoái chuyển. Lại có vô số Chư Thiên và chúng nhân thế gian đều đạt được pháp nhẫn rời bỏ hàng phàm phu.

Bấy giờ Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, lại rời chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật cung kính đảnh lễ rồi thưa với Đức Phật rằng: Kính bạch Thế Tôn! Con cũng xin được nhận lãnh việc nêu bày diễn nói về pháp hữu hành, vô hành chẳng thể nghĩ bàn ấy.

Đức Phật nói: Lành thay! Này vị Tộc Tánh Tử! Nếu Tôn Giả muốn diễn nói về pháp ấy thì hiện giờ là rất thích hợp.

Tôn Giả Mục Kiền Liên thưa với Đức Phật: Kính bạch Thế Tôn! Nay được nghe Đức Như Lai nêu bày tổng quát về các pháp là hữu hành, vô hành. Theo như sự quan sát và suy xét của con về chánh pháp của Như Lai, thì chẳng phải hàng Thanh văn như con là hữu hành, vô hành.

Sở dĩ như vậy là vì hàng đệ nhất Duyên Giác các căn đã thuần thục, lại chẳng mong muốn đạt được Chánh Giác bình đẳng. Nên con đối với Như Lai tức là vô hành vậy. Nếu khiến Đức Như Lai muốn rời bỏ biển Tuệ cùng xua trừ các trí để mong làm hàng đệ tử Duyên Giác, thì Như Lai đối với con là vô hành vậy.

Đức Thế Tôn nói: Tất cả các pháp đều là hư là tịch, không sinh diệt, gắn bó hay lìa dứt. Xét kỹ như thế thì sao lại hạn chế cho rằng hàng đệ tử Duyên Giác là không ở vào hàng các Bậc Giác Ngộ. Điều này càng khiến cho chúng con và chín vạn hai ngàn người thảy đều là hàng đạt được lục thông, tăng thêm hồ nghi bội phần.

Đức Thế Tôn nói: Pháp của Ta Bà là hết sức rộng lớn không có bến bờ, không vướng mắc vào nẻo tôi ta hay chấp có chúng sinh. Nếu là như thế thì Như Lai hôm nay đối với pháp giới thanh tịnh, rõ ràng là có sự thiếu sót vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên: Lành thay! Lành thay! Này vị Tộc Tánh Tử! Tôn Giả đã có thể ở trước Như Lai nêu bày thông suốt về vấn đề ấy. Ta nay sẽ hỏi Tôn Giả và Tôn Giả sẽ mỗi mỗi trả lời ta.

Tôn Giả Mục Kiền Liên thưa: Kính bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời.

Đức Phật hỏi: Này Tôn Giả Mục Liên! Hành có báo ứng chăng?

Tôn Giả Mục Liên thưa: Kính bạch Thế Tôn! Hành có báo ứng!

Đức Phật hỏi: Thế nào là có báo ứng của hành?

Tôn Giả Mục Liên thưa: Kính bạch Thế Tôn! Tùy theo duyên đổi, tạo điều thiện thì báo ứng thiện, tạo điều ác thì báo ứng ác.

Đức Phật lại hỏi: Thế nào là tạo điều thiện thì báo ứng thiện, tạo điều ác thì báo ứng ác?

Tôn Giả Mục Liên thưa: Kính bạch Thế Tôn! Ba đường ác, tám nạn với bao sự khảo tra đánh đập, đó là báo ứng ác. Niết Bàn tịch tĩnh dứt hẳn sinh diệt, đó là báo ứng thiện.

Đức Phật lại hỏi Tôn Giả Mục Liên: Này vị Tộc Tánh Tử! Thế thì hiện tại Như Lai gốc không có bị chi phối theo báo ứng chăng?

Tôn Giả Mục Liên thưa: Kính bạch Thế Tôn! Không có.

Đức Phật hỏi: Này vị Tộc Tánh Tử! Như nay Như Lai Vô Thượng, Chánh Giác, thân hình có màu sắc vàng ròng các tướng hảo đầy đủ, đó là do báo ứng gì?

Tôn Giả Mục Liên thưa: Kính bạch Thế Tôn! Về báo ứng nơi hình chất của Như Lai với các tướng tốt, chẳng phải là báo ứng của Niết Bàn.

Đức Phật hỏi: Tôn Giả đã thể nhập Niết Bàn chăng?

Làm sao biết được làm điều thiện thì báo ứng thiện, và cho đó là báo ứng của Niết Bàn?

Tôn Giả Mục Liên thưa: Tất cả các pháp thảy đều là giả hiệu chẳng phải chân thật. Chỗ gọi là Niết Bàn ấy cũng là giả hiệu. Vì vậy mà nói Niết Bàn theo hướng làm thiện được thiện.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên: Như Lai đối với Tôn Giả tức là vô hành, đó cũng là giả hiệu chẳng phải chân thật. Tôn Giả muốn đạt được đạo quả Vô Thượng, Chánh Giác, đối với chỗ đạt được của Như Lai tức là vô hành, cũng là giả hiệu. Ở trong pháp giả hiệu ấy mà muốn phân biệt hữu hành, vô hành, điều ấy là không thể được.

Lúc Đức Thế Tôn Giảng về pháp giả hiệu ấy thì có đến chín ức chúng sinh dốc phát tâm với thệ nguyện rộng lớn, vui thích mong muốn đạt được pháp hữu hành, vô hành Anh Lạc của hàng Bồ Tát. Lại có vô lượng chúng sinh đạt được các pháp môn Tổng trì, ba ức chúng sinh dứt sạch các lậu tâm ý cởi mở chứng đạo quả A La Hán.

Bấy giờ Tôn Giả Tân đầu lô lại rời chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật cung kính thưa: Kính bạch Thế Tôn! Con cũng xin được nhận lấy việc nêu bày về pháp hữu hành, vô hành Anh Lạc của Bồ Tát, giúp cho các hàng thiện nam, thiện nữ theo đấy mà tu tập.

Đức Thế Tôn nói: Lành thay! Lành thay! Này vị Tộc Tánh Tử! Như có thể nêu bày về pháp ấy thì hiện giờ thật là đúng lúc.

Tôn Giả Tân đầu lô thưa với Đức Phật: Kính bạch Thế Tôn! Như các vị thiện nam, thiện nữ, ở nơi quả Sơ Thiền, phân biệt năm ấm với sự phơi bày những cái xấu ác, bất tịnh, ở trong ấy tư duy không hề tham đắm vướng mắc, đó là hữu hành.

Như nhập pháp định ý, quán tưởng về năm ấm ấy là không chốn có, là hư chẳng phải thực. Quán thân của kẻ khác lại cũng như thế, đó là vô hành.

Kính bạch Thế Tôn! Lại nữa, như các hàng thiện nam, thiện nữ thân hiện ở chốn cấu uế từ chỗ bất tịnh mà sinh ra, đó là hữu hành. Quán tưởng một cách sâu xa về gốc ngọn của đối tượng để nhận rõ là không, đó là vô hành.

Kính bạch Thế Tôn! Như các vị thiện nam, thiện nữ ở nơi đạo quả nhị thiền đạt được đầy đủ bốn hành, đó là hữu hành. Thấu đạt về nhị thiền tận cùng đều quy về không, đó là vô hành.

Kính bạch Thế Tôn! Như các hàng thiện nam, thiện nữ, tự mình có thể khai mở sự giác ngộ để giáo hóa các loài chúng sinh, xua trừ làm thanh tịnh tâm đã từng dấy tưởng bất tịnh, đó là hữu hành. Thông tỏ được tâm tưởng tịnh gốc là không chốn có, đó là vô hành.

Kính bạch Thế Tôn! Như các hàng thiện nam, thiện nữ tư duy về tam thiền để dứt trừ các thứ phiền não, không tự đề cao mình về những công việc đã thực hiện được, đó là hữu hành. Chẳng còn thấy có phiền não cùng công việc tu tập thành tựu hay chẳng thành tựu, đó là vô hành.

Kính bạch Thế Tôn! Lại nữa, như các hàng thiện nam, thiện nữ ở nơi đạo quả Tứ thiền tư duy về năm ấm ý luôn gắn bó không hề quên mất, đó là hữu hành.

Nhận rõ tứ thiền, hoàn toàn dứt mọi khổ vui cùng các thứ trói buộc vướng mắc, đó là vô hành. Như vậy là các hàng thiện nam, thiện nữ đã thực hiện các pháp quán tịnh tĩnh về pháp hữu hành, vô hành Anh Lạc của hàng Đại Bồ Tát.

Tôn Giả Tân đầu lô nêu bày pháp hữu hành, vô hành ấy xong thì trở lại chỗ ngồi cũ của mình.

Bấy giờ Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên liền rời chỗ ngồi đứng dậy cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi đến trước Đức Phật thưa: Kính bạch Thế Tôn! Con nay cũng xin nhận lấy việc đứng trước Đức Như Lai nêu giảng về pháp hữu hành, vô hành, giúp cho những chúng sinh nương theo đấy mà tu tập. Như các hàng thiện nam, thiện nữ, đối với mười sáu hành của Bậc Giác Ngộ không hề dấy hồ nghi, đó là hữu hành.

Tư duy về mọi trói buộc vướng chấp tánh gốc vốn là không, cũng không có trói buộc vướng chấp tánh gốc vốn là không, cũng không có tên gọi về mười sáu hành của Bậc Giác Ngộ, đó là vô hành.

Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên lại thưa với Đức Phật: Như các vị thiện nam, thiện nữ dứt trừ sạch ba độc là tham dâm, giận dữ, si mê, nhận biết rõ tâm niệm của chúng sinh, hoặc tâm vô minh hoặc tâm không vô minh, hoac tâm ái dục hoặc tâm không ái dục.

Hoặc tâm giận dữ mưu hại hoặc tâm không giận dữ mưu hại, thảy thảy đều phân biệt không chút nhầm lẫn, đó là hữu hành. Như các hàng thiện nam, thiện nữ quán tưởng nhận biết ba độc ấy gốc là không thực có, không thấy chúng sinh sinh diệt, thảy đều vô hình hư tịch, đó là vô hành.

Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên lại thưa với Đức Phật: Như các vị thiện nam, thiện nữ, đối với mọi kết hợp của các thứ kết sử đều khiến vượt qua trọn vẹn, cũng không tạo tác hay dấy khởi các thứ phiền não trở lại, đó là hữu hành.

Đối với mọi thứ kết sử không thấy có việc vượt qua trọn vẹn hay chẳng vượt qua trọn vẹn, cũng không tạo tác hay dấy khởi sinh mối lo lắng về phiền não, đó là vô hành. Như thế là các hàng thiện nam, thiện nữ đã thực hiện pháp hữu hành, vô hành Anh Lạc của hàng Bồ Tát.

Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên ở nơi trước Đức Phật nêu giảng về pháp hữu hành, vô hành ấy xong cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi trở lại chỗ ngồi của mình.

Bấy giờ, Tôn Giả Ly Việt liền rời chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật cung kính đảnh lễ và thưa: Kính bạch Thế Tôn! Con cũng xin nhận lấy việc nêu giảng về pháp hữu hành, vô hành Anh Lạc của Bồ Tát.

Đức Phật bảo Tôn Giả Ly Việt: Có thể nhận lấy việc thuyết giảng về pháp ấy thì Tôn Giả cứ lần lượt nêu bày.

Tôn Giả Ly Việt thưa: Kính bạch Thế Tôn! Như các hàng thiện nam, thiện nữ, ở nơi pháp vô sinh vượt qua khỏi nẻo sinh tử, không thấy có sự vượt qua ấy, đó là hữu hành. Hội nhập vào cảnh giới Niết Bàn không tướng tịch nhiên vô hình, không còn có tưởng về chúng sinh, đó là vô hành.

Kính bạch Thế Tôn! Lại nữa, như các hàng thiện nam, thiện nữ đạt được giới luật của bậc Hiền Thánh nhận lấy từ các đạo quả chứng đắc tu tập mười hai pháp, đó là hữu hành. Nếu quán hết thảy các pháp gốc do nhân duyên hợp nên lúc tụ lúc tan, thông tỏ tận cùng là chẳng sinh cũng lại không nhận lấy sự chứng đắc, đó là vô hành.

Lại nữa, như các hàng thiện nam, thiện nữ đối với Chư Phật Thế Tôn và những giáo pháp đã thuyết giảng như các pháp khổ, tập, diệt, đạo là kho tàng quý giá của các bậc Hiền Thánh, dốc tu tập tiến tới cảnh giới Niết Bàn không còn các pháp sinh diệt, đó là hữu hành.

Không còn thấy có các pháp đạo phẩm của Hiền Thánh cùng cảnh giới Niết Bàn, đó là vô hành. Như thế là các hàng thiện nam, thiện nữ đã thực hiện các pháp hữu hành, vô hành Anh Lạc của hàng Bồ Tát.

Bấy giờ Tôn Giả Tu Bồ Đề lại rời chỗ ngồi đứng dậy đến trước Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và thưa: Kính bạch Thế Tôn! Con cũng xin nhận lãnh việc nêu giảng về pháp vô hành, hữu hành Anh Lạc của Bồ Tát.

Như có các hàng thiện nam, thiện nữ, từ gốc không hành đến Nhất thiết trí, quán tưởng thông tỏ mọi đối tượng vô hình chẳng thể nhận thấy, đó là hữu hành. Chẳng còn thấy gốc không nơi sinh ra các pháp, kể cả pháp Anh Lạc của Bồ Tát cũng như vậy, chẳng thấy pháp Anh Lạc của Bồ Tát cũng chẳng thấy chẳng phải pháp Anh Lạc Bồ Tát, đó là vô hành.

Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi Tôn Giả Tu Bồ Đề: Này vị Tộc Tánh Tử! Tôn Giả đã dựa vào những lý lẽ nào để cho rằng đây là pháp Anh Lạc của Bồ Tát, kia chẳng phải là pháp Anh Lạc của Bồ Tát.

Tôn Giả Tu Bồ Đề thưa: Kính bạch Thế Tôn! Nếu như các hàng thiện nam, thiện nữ, đối với pháp cứu cánh không sinh tưởng đoạn diệt hay dấy tưởng thường còn, đó là pháp Anh Lạc hữu hành của Bồ Tát.

Như các hàng thiện nam, thiện nữ, đối với pháp gốc không trong các pháp thảy không, nội không ngoại không, cũng không dấy không diệt, không chốn sinh, đạo không, Niết Bàn không, hết thảy các pháp đều là không như không, đó là pháp Anh Lạc vô hành của Bồ Tát.

Tôn Giả Tu Bồ Đề lại thưa với Đức Phật: Kính bạch Thế Tôn! Như các hàng thiện nam, thiện nữ đạt được pháp định không, ý thanh tịnh, đối với pháp luật của các bậc Hiền Thánh thảy đều có được đầy đủ tất cả nơi chốn xuất phát các pháp.

Từ đạo quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, lên tới đạo quả Như Lai Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, tất cả thảy đều được trang nghiêm đầy đủ con đường Niết Bàn giải thoát. Đó là pháp Anh Lạc hữu hành của Đại Bồ Tát.

Nếu lại có các hàng thiện nam, thiện nữ tu tập năm mươi lăm pháp Hư Không chính yếu, mỗi mỗi đều nhận rõ, tâm không giong ruỗi, thảy quy về không, đối với không dứt hết các pháp trong ấy không còn sinh diệt gắn bó đoạn lìa, đó là pháp Anh Lạc vô hành của Đại Bồ Tát.

Lúc Tôn Giả Tu Bồ Đề nêu giảng về tánh của pháp hữu hành, vô hành là pháp Anh Lạc của các vị Đại Bồ Tát, thì có tới mười ba ức chúng sinh vốn đã phát tâm hành đạo Bồ Tát, gốc theo cùng ý của Như Lai từ đấy bắt đầu kiến lập đạo tâm. Nhưng rồi về sau đến giữa chừng thì sinh trễ nãi biếng nhác.

Nay được nghe Trưởng Lão Tu Bồ Đề thuyết giảng các pháp là hư tịch, không sinh diệt không tham đắm hay đoạn lìa. Khiến các vị ấy đều trở lại dốc hết tâm ý để phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, dốc cầu tìm lại gốc của thệ nguyện nhằm thành tựu được pháp hữu hành, vô hành Anh Lạc của Bồ Tát.

Bấy giờ Tôn Giả Bân Nậu Văn Đà Ni Tử liền rời chỗ ngồi đứng dậy đi đến trước Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, rồi quỳ mọp chắp tay thưa: Kính bạch Thế Tôn! Con cũng xin nêu bày về pháp hữu hành, vô hành.

Như các hàng thiện nam, thiện nữ tư duy phân biệt pháp tánh là hành không, đối với các pháp không dấy tâm tôi ta, đó là hữu hành. Ý được thu giữ nên luôn an định, tâm như hư không, không tham đắm ba cõi, đó là vô hành.

Như các hàng thiện nam, thiện nữ giảng luận về các pháp với tâm vô sinh diệt, về pháp tam muội Kim Cang vượt khỏi Địa thứ tám, lìa bỏ gốc rối rắm, đó là hữu hành.

Như các vị thiện nam, thiện nữ đạt được ý tịch diệt vượt thoát, lấy đó làm pháp Anh Lạc trang nghiêm nơi thân nhằm tiến tới đạo quả vô thượng bồ đề, không lấy việc thành Phật cho là khoái lạc, tuy ở nơi chúng sinh mà không cho là đau khổ, tâm Kim Cang ấy không gì có thể hủy hoại được. Đó gọi là pháp hữu hành, vô hành Anh Lạc của Bồ Tát.

Như thế là lần lượt có tới chín vạn hai ngàn vị A La Hán đã dứt sạch các lậu, mỗi mỗi vị đều tuyên giảng thông suốt về pháp Anh Lạc hữu hành, vô hành của Bồ Tát.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần