Phật Thuyết Kinh Bản Sự - Phẩm Ba - Phẩm Ba Pháp - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH BẢN SỰ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Huyền Trang, Đời Đường  

PHẨM BA

PHẨM BA PHÁP  

PHẦN MỘT  

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Cảnh giới của các loài hữu tình thân cận với nhau, không chống trái nhau. Những loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Cảnh giới của các loài hữu tình nơi đời quá khứ đã thân ái nhau, không chống trái nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém đã thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Cảnh giới của các loài hữu tình nơi đời vị lai sẽ thân ái nhau, không chống trái nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém đã thân cận nhau, ảnh hưởng hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Các loài hữu tình ngay đời hiện tại đang thân ái nhau, không chống trái nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém đã thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Thế nên Tôn Giả Giải Kiều Trần Như cùng với đồng bạn của mình gồm sáu mươi người, thường nhóm họp, cùng tu phạm hạnh A Lan Nhã.

Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp cùng với đồng bạn của mình gồm vô lượng người, thường cùng nhóm họp, tu tập diệu hạnh Đầu Đà.

Tôn Giả Xá Lợi Phất cũng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường cùng nhóm họp tu tập hạnh đại trí tuệ.

Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường cùng nhóm họp đồng tu tập hạnh đại thần thông.

Tôn Giả Câu sắc chỉ la cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tạp hạnh vô ngại giải.

Tôn Giả Mãn Từ Tử cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh giảng thuyết chánh pháp.

Tôn Giả Ca Đa Diễn Na cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh giải thích Kinh Điển.

Tôn Giả Thiện Hiện cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập phạm hạnh trụ vô tránh.

Tôn Giả Hiệt Lệ Phạt Đa cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu các hạnh tĩnh lự.

Tôn Giả Ưu Ba Ly cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu hạnh trì luật.

Tôn Giả Vật Lực Sĩ Tử cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu hạnh trải tọa cụ… cho Chúng Tăng.

Tôn Giả Bất Diệt cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh thiên nhãn thanh tịnh.

Tôn Giả A Nan cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh ưa chuộng đa văn.

Tôn Giả La Hỗ La cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh vui thích trì giới.

Đồng Tử Ca Diếp cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh giỏi biện thuyết.

Tôn Giả Kiếp Tỷ Noa cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh giáo giới giáo thọ đại Bí Sô.

Tôn Giả Nan Đà cùng với đồng bạn với mình có vô lượng người, thường nhóm hợp đồng tu tập hạnh giáo giới giáo thọ Bí Sô Ni.

Tôn Giả Ưu Ba Tây Na cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh đầy đủ oai nghi.

Tôn Giả Nghiên Mỹ Nan Đà cùng với đồng bạn của mình gồm sáu mươi người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh đoan nghiêm.

Kẻ ngu si Thiện Thọ cùng với đồng bạn của mình gồm sáu mươi người, thường nhóm họp, đồng thực hành hạnh bạo ngược, ác độc.

Vì thế, nên biết các loài hữu tình thân cận với nhau, không chống trái nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém đã thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Như cỏ cây rừng rậm

Cũng như gió và lửa

Mỗi vật do nhóm loại

Loài hữu tình cũng vậy.

Người ngu quen với ngu

Người trí thân với trí

Bạn bè riêng nhóm loại

Nên gần người có trí.

Gần gũi người biếng nhác

Nhất định mất trí tuệ

Như phá rách phao nổi

Nhất định chìm biển sâu.

Nên phải lìa biếng nhác

Ưa ở chỗ vắng vẻ

Gần gũi người có trí

Có thể mau hết khổ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Do ba nhân, ba duyên có thể đưa đến đời sau. Ba nhân duyên đó là vô minh chưa vĩnh viễn đoạn trừ, ái chưa trừ bỏ và nghiệp chưa dứt trừ. Do những nhân duyên này nên đưa đến đời sau.

Vì sao?

Vì nghiệp là ruộng tốt, thức là hạt giống, ái là nước tưới, được bảo vệ do vô minh, vô trí, không thấu tỏ, không nhận biết, thức liền an trụ.

Đối với Ba Cõi Dục, Sắc, Vô Sắc, thì Cõi Dục là thấp nhất. Cõi Sắc ở bậc trung. Cõi Vô Sắc là hơn hết.

Thuận theo nghiệp của Dục Giới, đưa đến quả dị thục, không hiện tiền, không thể nêu bày được kết quả, đây là Cõi Dục. Do nghiệp nơi Cõi Dục đưa đến quả Dị Thục, chính thức hiện tiền nên hiện bày được kết quả, đây là Cõi Dục.

Nên ngay khi ấy, nghiệp là ruộng tốt, thức là hạt giống, ái là nước tưới, được bảo vệ do vô minh, vô trí, không thấu tỏ, không nhận biết, nên thức liền an trụ, đưa xuống chốn thấp kém của Dục Giới.

Thuận theo nghiệp của Sắc giới, đưa đến quả dị thục, nếu nghiệp không hiện tiền thì không thể nêu bày được kết quả. Đây là Cõi Sắc. Do nghiệp nơi Cõi Sắc, đưa đến quả dị thục, chính thức hiện tiền nên nêu bày được kết quả đây là Cõi Sắc. Nên ngay khi ấy, nghiệp là ruộng tốt, thức là hạt giống, ái là nước tưới, được bảo vệ do vô minh, vô trí, không thấu tỏ, không nhận biết, thức liền an trụ, đưa đến chốn bậc trung của Cõi Sắc.

Thuận theo nghiệp của Cõi Vô Sắc, đưa đến quả dị thục, không hiện tiền, không thể nêu bày được kết quả, đây là Cõi Vô Sắc. Do nghiệp của Cõi Vô Sắc, đưa đến quả dị thục, chính thức hiện tiền, nên có thể nêu bày được kết quả, đây là Cõi Vô Sắc. Nên ngay khi ấy, nghiệp là ruộng tốt, thức là hạt giống, ái là nước tưới, được bảo vệ do vô minh, vô trí, không thấu tỏ, không nhận biết, thức liền an trụ vào Cõi Vô Sắc tốt đẹp.

Bí Sô nên biết! Do xa lìa nên xuất ly Cõi Dục. Do Vô sắc nên xuất ly Cõi Sắc. Do diệt trừ hẳn nên xuất ly tất cả. Tư lự làm duyên nên phát sinh các hữu.

Bí Sô các ông nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật, xuất ly khỏi Cõi Dục, nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc.

Thế nào là các ông nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật quán sát, xuất ly Cõi Dục?

Nghĩa là lìa các pháp ác, bất thiện nơi Cõi Dục, có tầm, có từ, ly sinh hỷ lạc, an trụ hoàn toàn vào tĩnh lự thứ nhất. Dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật trong đó có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tánh của pháp này đều là vô thường.

Đều là khổ, như bệnh, như ung nhọt, như trúng tên độc, có phiền não, có độc hại, có sợ hãi, nghi ngờ, có hiềm oán, có thù địch, mau chóng hư hoại, nhiều các tật dịch, nhiều các tai ương, hư giả không thật, ly tán, không có ngã, không thể tin tưởng. Vậy nên các ông phải dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly Cõi Dục.

Thế nào là các ông nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly Cõi Sắc?

Nghĩa là chính thức vượt qua tất cả tưởng về sắc, diệt tưởng hữu đối, không còn tư duy vào tưởng gì khác nữa. Hoàn toàn an trụ nơi hư không vô biên, xứ không vô biên.

Dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật về thọ, tưởng, hành, thức, trong đó tánh của pháp này đều là vô thường, đều là khổ, như bệnh, như ung nhọt, như trúng tên độc, có phiền não, có độc hại, có sợ hãi, có nghi ngờ, có oán hận, có thù địch, nhiều các tật dịch, nhanh chóng hư hoại, nhiều các tai ương, hư giả không thật, ly tán, không có ngã, không thể tin tưởng. Thế nên các ông phải dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly Cõi Sắc.

Các ông vì sao nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly Cõi Vô Sắc?

Nghĩa là nhận biết đúng đắn đây là tịch tĩnh, đây là vi diệu, nghĩa là lìa kiêu mạn, dứt các thứ khát ái, diệt các A lại da, đoạn trừ các con đường lưu chuyển tắt, hoàn toàn không sở đắc, dứt ái, ly dục, Niết Bàn tịch diệt.

Vậy nên các ông phải dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly Cõi Vô Sắc. Ai làm được như vậy, nghĩa là dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để ra khỏi ba cõi, ngay nơi Ba Cõi Dục, Sắc và Vô Sắc càng thêm nhàm chán, từ bỏ. Càng nhàm chán, từ bỏ nên chinh thức lìa dục. Chinh thức lìa dục nên được giải thoát.

Được giải thoát xong tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Dùng chánh tuệ quán sát

Tướng xuất ly ba cõi

Chấm dứt hết các hành

Đắc Niết Bàn tối thượng.

Đã thoát khỏi các lậu

Khéo tu tập Du Già

Ngay nơi thân tối hậu

Hàng phục hết các ma.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Có ba nhân ba duyên làm cho các hữu tình mong cầu lợi dưỡng, sinh nhiều lỗi lầm.

Ba nhân duyên đó là:

1. Tham dục làm nhân làm duyên, khiến các hữu tình mong cầu lợi dưỡng, sinh các lỗi lầm.

2. Sự đắm chấp làm nhân làm duyên, khiến các hữu tình mong cầu lợi dưỡng, sinh các lỗi lầm.

3. Thọ dụng không thấy lỗi lầm làm nhân làm duyên, khiến các hữu tình mong cầu lợi dưỡng, sinh nhiều lỗi lầm.

Bí Sô các ông không nên phát sinh ba nhân ba duyên cầu lợi dưỡng, sinh nhiều lỗi lầm này.

Bí Sô nào đầy đủ ba nhân ba duyên như đã nói này, đi đến nhà thí chủ cầu xin lợi dưỡng tốt. Hoặc giả, gặp lúc nhà đó bỗng nhiên bị sa sút, khi thấy Bí Sô đến sinh lòng buồn rầu, lo lắng, lặng thinh không cung kính chào hỏi, không đứng dậy tiếp rước, không nhắc ghế mời ngồi, không nói chuyện.

Bí Sô thấy tướng ấy liền nghĩ: Nhà thí chủ này thường cung kính tiếp đãi.

Ai đã gièm siểm đến nỗi như vậy?

Do nhân duyên này làm cho Bí Sô không vui vẻ, không nhẫn nhục, lòng sân giận, độc hại phát sinh, hoặc phát sinh nghiệp ác bất thiện thuộc thân, ngữ. Do đây, bị đọa trong các nẻo ác, chịu quả báo không ưa thích.

Bí Sô nên biết! Ta quán xét các loại hữu tình khắp thế gian do lợi dưỡng quấy nhiễu tâm họ, sau khi qua đời bị đọa trong các nẻo ác, sinh nơi địa ngục, chịu qua báo không ưa thích.

Ta quán sát các loại hữu tình khắp thế gian do suy tổn làm rối loạn tâm họ, sau khi qua đời bị đọa trong các nẻo ác, sinh nơi địa ngục, chịu qua báo không ưa thích. Ta quán sát các loại hữu tình khắp thế gian do lợi dưỡng và suy tổn làm rối loạn tâm, sau khi qua đời bị đọa trong các nẻo ác, sinh nơi địa ngục, chịu qua báo không ưa thích.

Vì sao?

Vì phàm phu ngu si bị các lợi dưỡng trước hết phá hết lớp màng mỏng của họ. Phá lớp màng mỏng xong, phá đến da. Phá da xong, phá đến thịt. Phá thịt xong lại cắt đứt gân mạch. Cắt đứt gân mạch xong lại phá xương cốt.

Phá xương cốt xong, lại tổn thương tủy não, sau đó mới dừng, thế nên các ông phải học như vậy: Ta phải tu tập như thế nào để không bị lợi dưỡng quấy nhiễu tâm?

Ta phải tu tập như thế nào để không bị suy tổn quấy nhiễu tâm?

Ta phải tu tập như thế nào để không bị lợi dưỡng và suy tổn quấy nhiễu tâm?

Một mình ở chỗ vắng vẻ, siêng tu tập hạnh Thánh, mau chứng Niết Bàn thường lạc vô thượng. Bí Sô các ông nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Do ba loại nhân duyên

Mong cầu các lợi dưỡng

Phá vô số công đức

Và thối thất nhân thiên.

Những người có trí tuệ

Được chút ít lợi dưỡng

Tâm họ khéo an định

Bất định như núi lớn.

Thường tĩnh lự an nhiên

Quán đúng nghĩa các pháp

Tu tri kiến sâu xa

Chứng Niết Bàn thường lạc.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo: Bí Sô nên biết! Sinh vào chỗ tốt đẹp trong Dục Giới lược có ba loại. Ở đó, tuy họ được nhiều phước lớn nhưng phải chịu luân hồi sinh tử theo các dục, không thể xuất ly.

Vì sao?

Vì cõi sống tốt đẹp ấy cũng thuộc về cảnh giới hoạt động của dục.

Thế nào là ba?

1. Chỗ sinh thù thắng là Cõi Trời Dục trụ nơi Dục Giới.

2. Chỗ sinh thù thắng là Cõi Trời Lạc hóa nơi Dục Giới.

3. Chỗ sinh thù thắng là Cõi Trời Tha hóa nơi Dục Giới.

Đó là ba chỗ sinh thù thắng nơi Cõi Dục. Đối với người đó tuy được phước rất lớn nhưng vẫn chịu luân hồi sinh tử trong các dục, không thể xuất ly.

Vì sao?

Vì chốn sinh thù thắng ấy cũng đều thuộc về cảnh giới hoạt động của dục. Thánh đệ tử của ta, đối với ba chỗ sinh thù thắng nơi Cõi Dục ấy quán sát đúng như thật có các hoạn nạn, nên đối với Cõi Dục này càng sinh nhàm chán, từ bỏ. Sinh nhàm chán, từ bỏ nên có thể chinh thức lìa dục.

Chinh thức lìa dục nên đắc giải thoát.

Đắc giải thoát xong, liền tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần