Phật Thuyết Kinh Bảo Vũ - Phần Hai Mươi Năm
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đạt Ma Lưu Chi, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH BẢO VŨ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đạt Ma Lưu Chi, Đời Đường
PHẦN HAI MƯƠI NĂM
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì có khả năng tự rõ biết.
Những gì là mười?
1. Bồ Tát quan sát thân mình là dòng họ nào: Dòng Bà La Môn, Sát Đế Lợi, hoặc nhà Cư Sĩ phú quý, nhà nghèo khổ, trong các dòng họ sinh vào dòng họ nào?
Bồ Tát tuy thường sinh vào các dòng họ tôn quý nhưng không bao giờ ỷ vào đó mà khởi lên kiêu mạn.
Nếu sinh vào dòng họ bần tiện thì suy nghĩ thế này: Ta thuở xưa đã từng làm các tạp nhiễm, do đó khiến ta sinh vào dòng họ này. Vì nhân duyên ấy nên Bồ Tát nhàm chán xa lìa các hữu, do nhàm chán xa lìa mà cầu xuất gia.
2. Được xuất gia rồi, nên nghĩ thế này: Vì lợi ích gì mà cầu xuất gia?
Bồ Tát tư duy như vậy: Nay ta xuất gia là vì muốn tự độ làm cho người khác được độ, tự giải thoát khiến cho người khác giải thoát. Cho nên, Bồ Tát luôn luôn xa lìa buông lung, biếng nhác.
3. Bồ Tát nên nghĩ: Nay ta xuất gia, đối với các tội chướng bất thiện đều nên diệt trừ.
Vì sao?
Vì như có tội đã được đoạn trừ thì tự tâm sinh hoan hỷ vui mừng, nếu chưa đoạn trừ thì làm cho đoạn trừ, vậy cần phải chuyên cần tu tập.
4. Bồ Tát cần phải quan sát như vậy: Ta đã xuất gia, tất cả pháp lành đều được tăng trưởng.
Vì sao?
Vì nếu các pháp lành đã được tăng trưởng thì tâm sinh hoan hỷ, nếu chưa tăng trưởng thì làm cho tăng trưởng, ân cần tu tập.
5. Bồ Tát nên quan sát thế này: Nếu pháp lành tăng trưởng thì tội chướng diệt trừ, vậy ta nên nương tựa bậc Tôn Giả, do nhân duyên đó, Bồ Tát thuận theo Hòa Thượng, trì giới hay phá giới, nghe ít hoặc nghe nhiều, có danh tiếng hoặc không danh tiếng, khởi tưởng là Đạo Sư giống như Thế Tôn, sinh tịnh tín hoan hỷ vui mừng.
6. Bồ Tát nên đối với thầy A Xà Lê luôn luôn tôn trọng, cung kính, cúng dường, suy nghĩ thế này: Ta nay nương tựa thầy A Xà Lê, đối với pháp Bồ Đề phần chưa viên mãn thì nguyện được viên mãn, đối với pháp phiền não chưa đoạn trừ nguyện được đoạn trừ.
Bồ Tát thờ kính thầy A Xà Lê tưởng như Hòa Thượng, nếu có pháp lành thì tùy thuận tiếp thu, còn pháp bất thiện thì biết rõ chẳng làm, do vậy tâm sinh hoan hỷ vui mừng.
7. Bồ Tát nên khởi tư duy: Ai là thầy ta?
Lại nghĩ thế này: Bậc nhất thiết trí là thầy của ta.
Thế nào là bậc nhất thiết trí?
Đó là bậc biết rõ các pháp thương xót thế gian, luôn luôn khởi lòng đại bi làm ruộng phước lớn, ban cho tất cả thế gian, Trời, Người, A Tố Lạc… làm bậc mẫu mực là Đạo Sư của ta. Do đó, Bồ Tát hoan hỷ vui mừng được lợi ích lớn.
Bồ Tát lại tư duy: Chư Phật Thế Tôn là thầy của ta, học xứ Thánh Đạo mà Chư Phật diễn thuyết ta nên tu tập cho đến mạng chung cũng không vi phạm, ta nên tôn trọng Chư Phật như vậy, tâm thường cung kính cúng dường.
8. Bồ Tát tư duy thế này: Ta theo ai khất thực được thức ăn?
Ta nên xin thức ăn từ những Bà La Môn, Sát Đế Lợi … ở nơi thành ấp, xóm làng, ta khiến hữu tình… như vậy nhờ vào sự cúng dường thức ăn mà được quả báo lớn, được lợi ích lớn, được oai đức lớn, cho nên đi khất thực.
9. Bồ Tát tư duy thế này: Các Bà La Môn, Sát Đế Lợi… ở nơi thành ấp, xóm làng, họ nghĩ tưởng thế nào mà cho ta thức ăn?
Bồ Tát lại nghĩ: Họ đối với ta nghĩ tưởng là Sa Môn, nghĩ tưởng là Bí Sô, nghĩ tưởng là ruộng phước mà cho ta thức ăn, ta nên suy nghĩ chỉ có Sa Môn và người có ruộng phước, tất cả công đức ấy ta đều tu tập.
10. Bồ Tát suy nghĩ thế này: Sinh tử vô thỉ, ta nay ra khỏi.
Tại sao ra khỏi?
Bồ Tát suy nghĩ: Ta được xuất gia thành pháp Bí Sô, là sự ra khỏi thứ nhất. Ta nay thành tựu công đức của Sa Môn, là sự ra khỏi thứ hai. Ta thường tinh tấn xa lìa buông lung, chứng được pháp tánh, nên có khả năng ra khỏi sinh tử vô thỉ, là sự ra khỏi thứ ba.
Ta đang hướng đến vô thượng bồ đề mà chứng Đẳng Giác, là sự ra khỏi thứ tư. Do Bồ Tát ra khỏi quan sát như vậy nên có khả năng tự biết rõ.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này nên tự biết rõ.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì có khả năng biết về thế gian.
Những gì là mười?
1. Đối với người xấc láo thì luôn tự hạ thấp.
2. Đối với người kiêu mạn luôn lìa kiêu mạn.
3. Đối với người quanh co luôn nói lời chất trực.
4. Đối với người lừa dối luôn nói lời chân thật.
5. Đối với người nói lời ác luôn nói lời thương yêu.
6. Đối với người kiên cường luôn nói lời nhu hòa.
7. Đối với người thô ác thì luôn luôn nhẫn nhục.
8. Đối với người nóng giận thì luôn tu lòng từ.
9. Đối với người khổ não thì luôn tu lòng bi.
10. Đối với người keo kiệt thì luôn tu về bố thí.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì có khả năng biết về thế gian.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được sinh về Cõi Phật thanh tịnh.
Những gì là mười?
1. Thành tựu về giới không khuyết không tạp, giới không tỳ vết, giới được thanh tịnh.
2. Vì tất cả hữu tình tâm được bình đẳng.
3. Có khả năng thành tựu căn lành rộng lớn.
4. Đối với sự lợi dưỡng, tiếng tốt, cung kính, khen ngợi, tâm thường lìa bỏ không còn đắm nhiễm.
5. Được lòng tin thanh tịnh, không nghi hoặc.
6. Thường tu tinh tấn lìa tâm biếng trễ.
7. Có khả năng nhập định vắng lặng tâm không tán loạn.
8. Luôn được nghe nhiều mà không có tuệ ác.
9. Thành tựu trí tuệ nhạy bén, căn tánh không chậm lụt.
10. Có lòng từ bi không gây tổn hại.
Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đối với mười pháp này cần phải đầy đủ mới được sinh, nếu bị khuyết thì có thể được sinh không?
Phật bảo: Này thiện nam! Nếu có Bồ Tát nào thành tựu được một pháp mà không khuyết giảm, không một chút vi phạm, tươi trắng thanh tịnh, thì các Bồ Tát ấy liền được đầy đủ thành tựu mười pháp.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì được sinh về Cõi Phật thanh tịnh.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được ở thai tạng không bị nhiễm bụi dơ.
Những gì là mười?
1. Tạo hình tượng Như Lai.
2. Sữa chữa tháp của Chư Phật bị phá hoại.
3. Dùng những loại hương tốt thoa lên tượng Phật để cúng dường.
4. Dùng những loại nước thơm rửa tượng Như Lai để cúng dường.
5. Ở nơi tháp Phật quét dọn, rưới trét trên đất để cúng dường.
6. Thường gần gũi, thờ kính, hầu hạ, cúng dường cha mẹ.
7. Thường gần gũi cúng dường thầy A Xà Lê, Hòa Thượng.
8. Luôn gần gũi cúng dường người tu phạm hạnh mà tâm Bồ Tát chẳng có mong cầu.
9. Bồ Tát nguyện đem căn lành này bố thí cho hữu tình, do căn lành của ta khiến cho họ không còn đắm nhiễm sinh ở nơi bào thai nhơ bẩn.
10. Bồ Tát hồi hướng như vậy, ý vui tha thiết mãnh liệt thâm sâu.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì được ở nơi thai tạng không nhiễm bụi trần.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được bỏ nhà xuất gia.
Những gì là mười?
1. Không còn nắm giữ.
2. Ở nơi không tạp loạn.
3. Nhàm chán cảnh giới.
4. Lìa cảnh giới ưa đắm.
5. Chẳng khởi nhiễm đắm cảnh giới lỗi lầm.
6. Đối với tất cả học xứ Chư Phật dạy luôn cung kính tôn trọng, luôn khéo tu tập dũng mãnh tinh tấn.
7. Đối với đồ ăn thức uống, y phục, tư cụ, thuốc thang tùy nơi mà thọ nhận đồ vật tâm thường biết đủ.
8. Đối với bình bát, ca sa và tư cụ khéo lìa bỏ tất cả sự tích chứa.
9. Ở trong cảnh giới tâm thường sợ sệt, khởi lên nhàm chán xa lìa.
10. Thường chuyên cần tu tập, có khả năng trụ vào vắng lặng ngay hiện tiền.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì được gọi là bỏ nhà xuất gia.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được mạng thanh tịnh.
Những gì là mười?
1. Có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng bằng cách lừa dối dua nịnh.
2. Có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng vì hiện tướng ấy.
3. Có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng bằng cách cổ động nói dối.
4. Có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng xấu ác.
5. Có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng phi pháp.
6. Có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng bất tịnh.
7. Không tham đắm lợi dưỡng.
8. Được sự không tham đắm lợi dưỡng.
9. Được tánh không nóng bức.
10. Đối với lợi dưỡng như pháp luôn luôn biết đủ.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ Tát có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng bằng cách lừa dối dua nịnh?
Nghĩa là Bồ Tát này không vì nhân duyên lợi dưỡng mà để cho nghiệp thân ngữ tâm dối trá.
Thế nào là thân không dối trá?
Đó là Bồ Tát này như gặp thí chủ và người trợ giúp không hiện oai nghi.
Thế nào là không hiện oai nghi?
Là Bồ Tát này khi cất chân không trá bước từ từ, hoặc khi hạ chân không nhìn về trước một tầm, hiện tướng tư duy, cũng chẳng trá ngụy, không quay đầu, nhìn thẳng.
Thế nào là lời nói không dối trá?
Là Bồ Tát này không vì lợi dưỡng mà nói lời nhỏ nhẹ từ từ, nhu hòa yêu thích và lời nói chiều theo.
Thế nào là tâm không dối trá?
Là như lúc có thí chủ và người trợ giúp, Bồ Tát không vì lợi dưỡng mà nói lời thiểu dục, trong lòng lại ôm ấp nhiều tham cầu nóng bức. Đó là Bồ Tát không vì lợi dưỡng mà dối trá dua nịnh.
Thế nào là có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng mà hiện tướng kia?
Là Bồ Tát như gặp thí chủ và người trợ giúp hoàn toàn không hiện dị tướng nhưng họ nói: Tôi cúng dường y bát thuốc thang khi bệnh duyên, mà thí chủ và người trợ giúp ấy không cấp cho, Bồ Tát không bao giờ đến cầu xin họ. Đó là Bồ Tát có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng vì hiện tướng kia.
Thế nào là Bồ Tát có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng bằng cách cổ động nói dối?
Là Bồ Tát như gặp thí chủ và người trợ giúp hoàn toàn không nói dối trá: Thí chủ A, B nào đem vật này mà cúng cho tôi, tôi vì vật ấy mà đền ân họ.
Lại cũng không nói: Thí chủ A, B nào vì tôi trì giới đa văn thiểu dục đem những vật ấy mà cúng cho tôi, tôi khởi lòng bi thương xót mà thu nhận họ. Đó là Bồ Tát có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng bằng cách cổ động nói dối.
Thế nào là Bồ Tát có khả năng lìa bỏ sự lợi dưỡng xấu ác?
Này thiện nam! Bồ Tát không vì lợi dưỡng mà để thân tâm làm điều ác. Thân làm ác là vì lợi dưỡng mà bôn ba, phạm giới.
Tâm hành ác là: Mong cầu lợi dưỡng, hễ thấy người khác kể cả người đồng phạm hạnh được sự lợi dưỡng thì nổi tâm gây tổn hại. Đó là Bồ Tát lìa bỏ sự cầu lợi dưỡng xấu ác.
Thế nào là Bồ Tát lìa bỏ lợi dưỡng phi pháp?
Là Bồ Tát này không làm việc dối trá để thủ lấy lợi dưỡng, không vì cân lường mà làm việc lừa dối. Không bao giờ xâm phạm tổn hại đến uy tín của người khác, cũng không hành động dối trá. Đó là Bồ Tát lìa bỏ lợi dưỡng phi pháp.
Thế nào là Bồ Tát lìa bỏ sự lợi dưỡng bất tịnh?
Nghĩa là Bồ Tát này được sự lợi dưỡng nếu như vật chung của tháp hoặc pháp hoặc Tăng, hoặc người không cho, cũng chẳng hứa cho, tuy được vật ấy nhưng quyết không nhận. Đó là Bồ Tát lìa bỏ lợi dưỡng bất tịnh.
Thế nào là Bồ Tát không tham đắm lợi dưỡng?
Nghĩa là Bồ Tát này khi được lợi dưỡng, không nhận làm vật riêng, không tự xưng mình giàu có, cũng không tích chứa, luôn luôn tặng cho Sa Môn, Bà La Môn… hoặc biếu cho cha mẹ và người trợ giúp hai bên, bạn thân, quyến thuộc.
Khi sử dụng tùy mình nhận dùng nhưng chẳng đắm nhiễm. Khi Bồ Tát không được lợi dưỡng, tâm chẳng sinh khổ, cũng chẳng bức bách.
Nếu thí chủ và người trợ giúp kia mặc dù không giúp nhưng Bồ Tát đối với họ vẫn không khởi tâm nóng giận, còn nếu như được lợi dưỡng như pháp và theo thứ tự của Tăng thì tất cả Như Lai đều cùng chấp thuận, các Bồ Tát chẳng có quở trách, Chư Thiên khen ngợi, người đồng phạm hạnh chẳng cơ hiềm, đối với lợi dưỡng này luôn luôn biết đủ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm Quán Suy Xét - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện Công đức - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Năm Mươi Tám
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã - Phẩm Hai Mươi Mốt - Phẩm Trị địa
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Phổ Siêu Tam Muội - Phẩm Mười Một - Phẩm Tâm Bản Tịnh