Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn - Phẩm Bốn - Phẩm Bí Mật ấn Tam Muội Gia - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT KINH BẤT KHÔNG

QUYẾN SÁCH THẦN BIẾN CHÂN NGÔN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM BỐN

PHẨM BÍ MẬT ẤN TAM MUỘI GIA  

TẬP HAI  

Thành Tựu Ấn: Chắp hai tay lại, bên trong lòng bàn tay rất trống rỗng. Co ngang bằng hai ngón trỏ, hai ngón vô danh cùng trụ đầu ngón. Hơi co ngón giữa dựng hợp đầu ngón, ló lóng thứ nhất trên đầu của hai ngón trỏ, ngón vô danh.

Kèm dựng hai ngón cái hơi co lại sao cho đầu ngón cách mặt bên cạnh hai ngón trỏ một thốn bốn phân 7/mười năm dm. Đều dựng hai ngón út nắm cạnh ngón vô danh cùng cách nhau hai thốn 2/3 dm.

Chân Ngôn của Ấn:

Án đổ lỗ đổ lỗ bát đầu mễ y mộ già tất địa hồng.

OṂ. DHURU DHURU. PADME AMOGHA SIDDHI HŪṂ.

Người trì kết Ấn tam muội này sẽ được Quán Thế Âm Bồ Tát mau chóng gia bị, đều sẽ thành tựu pháp xuất thế gian của Y Mộ Già Vương Amogha rāja, tăng thịnh phước đức, được người vui khen, tất cả Thiên Thần đều âm thầm hộ giúp.

Kim Cương Liên Hoa Tâm Ấn: Úp lòng bàn tay phải xuống, ngửa lòng bàn tay trái lên, hai lưng bàn tay cùng dính với nhau, cài ngón út phải ở khoảng rẽ của ngón cái trái, cài ngón cái phải ở khoảng rẽ của ngón út trái, hai ngón trỏ đều co gấp trong lòng bàn tay.

Hai ngón giữa, hai ngón vô danh đều kèm nhau duỗi dính lưng bàn tay. Để Ấn ngay trái tim, thân ngay ngắn ngồi thẳng, tâm như Kim Cương, niệm trong sạch chẳng lay động.

Chân Ngôn của Ấn:

Án y mộ già, hột lợi na dã bát đầu mễ đà la đà la bát đầu ma đà la ma ha mạn noa la, hột lợi na dã hồng.

OṂ. AMOGHA HṚDAYA PADME DHARA DHARA. PADMA DHĀRA MAHĀ MAṆḌALA HṚDAYA HŪṂ.

Người kết trì Ấn tam muội này, tụng Bí Mật Tâm Chân Ngôn bảy biến, nơi các.

Pháp làm, giúp cho vận thành tựu.

Quyến Sách Ấn: Che úp hai lòng bàn tay ngay dưới trái tim, co ngón cái hướng vào lòng bàn tay, đầu ngón cách lòng bàn tay một thốn 1/3dm. Đều hơi co ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út sao cho khoảng giữa của bốn ngón ấy cách nhau một thốn 1/3dm tựa như cánh hoa sen.

Ngửa lòng bàn tay phải ngay trên lưng tay tay cách bảy thốn 7/3dm, co ngón cái hướng đầu ngón vào lòng bàn tay một thốn 1/3dm co đầu ngón giữa cách lưng móng cái một thốn 1/2dm hướng ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út về lòng bàn tay rồi hơi co lại Chân Ngôn của Ấn:

Án bá du bá để, bá xả đà la xả đá sa ha tắc la la thấp nhĩ bả la để mạn nê đá ca dã y ca lợi sái nê bồ đà nễ, tam bồ đà nê bộ lỗ bộ lỗ  y mộ già bá xả, tất đễ hồng.

OṂ. PAŚUPATI PĀŚA DHĀRA ŚATA SAHASRA RAŚMI PRATIMAṆḌITA KĀYA ĀKARṢANE BODHANA SAṂBODHANE. BHRŪ BHRŪ. AMOGHA PĀŚA SIDDHI HŪṂ.

Người kết trì Ấn tam muội này, một lần tụng Mẫu Đà La Ni Chân Ngôn thì gia trì một lần. Đem tay phải hướng ra ngoài ném, đủ ba lần. Tay trái định trụ lại tụng Bí Mật Tâm Chân Ngôn bảy biến rồi giải tán Ấn.

Do điều này ắt nhiếp A Nậu Bồ Đề tam muội Chủng Trí trụ trong Ý Thức. Ngay nơi sinh ra được tướng Đại Nhân, tất cả Thiên Thần ngắm nhìn yêu giúp. Chư Phật, Bồ Tát ở mười phương khéo ưa thích quán nhìn.

Quán Thế Âm Bồ Tát xoa đỉnh đầu khen khuyên: Tội đại tà kiến, chê bai chánh pháp trong vô thủy kiếp đều được trừ diệt. Phước đã đạt được tựa như thấy thân của ta, ví như núi Tu Di.

Đại Bảo Tràng Ấn: Chắp tay, bên trong lòng bàn tay rất trống rỗng. Kèm dựng thẳng hai ngón vô danh, hai ngón út cùng hợp đầu ngón. Hai ngón giữa đều co đầu ngón đề vạch thứ nhất trên cạnh hai ngón vô danh khiến đầu ngón cách nhau hai phân 1/mười nămdm.

Co hai ngón trỏ cùng trụ đầu ngón, hai ngón cái đều nắm cạnh ngón trỏ, duỗi thẳng cánh tay đưa Ấn lên ngay trên đỉnh đầu Chân Ngôn của Ấn: Án trất lý dã đặc bà nỗ nga đá tị săn giả đô tát phộc trất lý dã đặc bà tị sái giai  bát đầu ma bá nê tố bát đầu mễ y mộ kỳ, tát phộc đả tha nga đá địa sắt sỉ đế, hồng.

OṂ. TRIYADHVĀNUGATA ABHIṢIMCA TU SARVA TRIYADHVA ABHIṢEKAI PADMA PĀṆI SU PADME AMOGHE SARVA TATHĀGATA ADHIṢṬITE HŪṂ.

Người kết trì Ấn tam muội này tức đồng với tất cả Như Lai ở mười phương duỗi bàn tay trao cho Quán Đỉnh, lại như Quán Thế Âm Bồ Tát duỗi bàn tay trao cho Quán Đỉnh. Ngay nơi sinh ra,chứng Chân Ngôn Tiên Đại Chuyển Luân Vương tam muội gia, được Bất Không Vương tam muội này hiện ra trước mặt, tồi diệt trừ bỏ phiền não ngăn che, sinh ở thế gian được Phước Thọ vô hạn.

Phấn Nộ Vương Ấn: Hợp cổ tay dính nhau, dựng thẳng mở lòng bàn tay. Đều kèm hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út sao cho đầu ngón dính nhau tựa như co lại cách nhau nửa thốn 1/6dm. Hai ngón trỏ đều nắm trên lóng giữa bên cạnh ngón giữa, co lại như móc câu.

Hai ngón cái đều duỗi dựng cách nhau nửa thốn 1/6dm. Để Ấn trên đỉnh đầu, cau mày trợn mắt làm đại sân nộ, ngoái nhìn bên trái bên phải.

Chân Ngôn của Ấn:

Án củ lỗ đà la nhạ ma ha mộ già ca na ca na tát phộc nột sắt tra, hồng.

OṂ. KRODHA RĀJA MAHĀ AMOGHA KAṆA KAṆA. SARVADUṢṬA HŪṂ.

Ấn tam muội này hay nghiền nát tất cả Thiên Long Thần ác, tất cả người ác… hồi phục tâm ác. Cũng hay tồi hoại Tu Di Sơn Vương, các Tỳ Na Dạ Ca ác, tất cả quyến thuộc đều tự chịu phục. Tất cả Chư Thiên, Sa Môn, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà… vui vẻ kính trọng, thành tựu các pháp.

Đa La Bồ Tát Ấn: Chắp tay, bên trong lòng bàn tay trống rỗng.

Hơi co mười ngón tay, sao cho đầu ngón dính nhau Chân Ngôn của Ấn:

Án bát đầu ma, đá lê đổ lỗ đổ lỗ hồng.

OṂ. PADMA TĀRE DHURU DHURU HŪṂ.

Ấn tam muội này cũng hay thành tựu tất cả sự nghiệp.

Đại Bạch Quán Thế Âm Bồ Tát Ấn: Chắp tay, bên dưới lòng bàn tay ấy mở một thốn 1/3dm. Đều co hai ngón trỏ, hai ngón giữa, hai ngón vô danh đều hợp đầu ngón. Hai ngón cái đều dựng thẳng nắm trên cạnh ngón trỏ, cách nhau một thốn 1/3dm. Đều dựng thẳng hai ngón út rồi hơi co lại sao cho đầu ngón cách nhau tám phân 4/mười nămdm.

Chân Ngôn của Ấn:

Án 1 ma ha bát đầu mễ thấp phế đắng nghe hổ lỗ hổ lỗ toa phộc ha.

OṂ. MAHĀ PADME ŚVETAṄGE HURU HURU SVĀHĀ.

Ấn tam muội này hay gom tập mọi pháp, mau chứng thành tựu.

Tỳ Câu Chi Bồ Tát Ấn: Chắp tay, đều dựng thẳng hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út cùng hợp đầu ngón. Hai ngón trỏ đều để ở khoảng rẽ của ngón giữa với ngón vô danh cùng trụ đầu ngón. Kèm duỗi hai ngón cái đè trên lóng giữa của hai ngón giữa.

Ngậm miệng, nghiến răng, cau mày, trợn mắt… giận dữ ngó nhìn Chân Ngôn của Ấn:

Án bật lý củ chi, bát đầu mễ đá la đá la hồng.

OṂ. BHṚKUṬĪ PADME DARA DARA HŪṂ

Ấn tam muội này tồi phục tất cả, mãn các Nguyện.

Bạch Thân Quán Thế Âm Mẫu Bồ Tát Ấn: Là Bạch Thân Mẫu Ấn đồng với.

Đại Bạch Thân Quán Thế Âm Ấn lúc trước Chân Ngôn của Ấn:

Án 1 bát đầu ma bán noa la phộc tỉ nễ củ nỗ củ nỗ toa phộc ha.

OṂ. PADMA PĀṆḌARA VĀSINI KUṆU KUṆU SVĀHĀ.

Nhất Thiết Thiên Thần Ấn: Hợp cổ tay dính nhau. Hai ngón giữa bằng nhau.

co đầu ngón trụ nhau. Tám ngón còn lại đều bung tách mở khoảng rẽ cách nhau một.

thốn 1/3dm, toàn thể hơi co đầu ngón đừng cho đầu ngón dính nhau Chân Ngôn của Ấn:

Án y mộ kỳ, bát đầu ma phộc la nỉ tất đình dạ, tất đình dạ, hồng.

OṂ. AMOGHA PADMA VARADE SIDDHIYA SIDDHIYA HŪṂ.

Ấn tam muội này triệu các Thiên Thần trụ hội bên trong Đàn, vui vẻ hộ trì.

Nhất Thiết Sứ Giả Ấn: Chắp tay, bên trong lòng bàn tay trống rỗng như hoa sen chưa nở.

Chân Ngôn của Ấn: Án tát phộc đát la nga nhĩ nễ y bà ca dã lạo ninh lợi nê, hồng.

OṂ. SARVATRA GAMIN A PĀKA JA RAUDRIṆĪ HŪṂ.

Ấn tam muội này triệu các Thiên Nữ, Dược Xoa, Sứ Giả đều đến hội trụ.

Bảy Đa La Thiên Nữ Ấn: Hợp cổ tay dính nhau, co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay đều vịn đúng vạch thứ nhất ở gốc ngón vô danh. Đều đem ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út nắp ngón cái thành quyền. Hai ngón giữa đều hơi co đầu ngón cách nhau nửa thốn 1/6dm.

Chân Ngôn của Ấn: Án a mộ kì nễ đá lê, đá la gia tam bát đầu ma, bộ nê, hồng.

OṂ. AMOGHEṆĪ TĀRE TĀRĀYA PADMA PUNE HŪṂ.

Ấn tam muội này hay giáng phục tất cả mọi Thiên Thần ác, âm thầm hộ giữ Đàn Pháp.

Mã Đầu Quán Thế Âm Ấn: Chắp tay, trống rỗng lòng bàn tay. Co hai ngón trỏ vào trong lòng bàn tay sao cho lưng ngón tay dính nhau.

Kèm duỗi hai ngón cái đè trên lóng giữa của hai ngón trỏ Chân Ngôn của Ấn:

Án độ lỗ đá lỗ la bát đầu mễ y mộ kì, hồng.

OṂ. DHURU TARULA PADME AMOGHE HŪṂ.

Ấn tam muội này ở trong các pháp rất ư kỳ lạ thù thắng.

Bá Noa Phộc Mục Khư Ấn: Chắp tay, trống rỗng lòng bàn tay. Hai ngón giữa đều lui về đè trên lóng thứ thất trên ngón trỏ cùng trụ đầu ngón. Hai đầu ngón trỏ đều trụ trên cạnh hai ngón vô danh. Hai ngón cái kèm nhau duỗi nghiêng rồi dựng thẳng hướng lên trên.

Chân Ngôn của Ấn:

Án phộc noa phộc mục khê nễ cật lận đá dã nột sắt tra, hồng.

OṂ. PAṆAVA MUKHĪ NIKṚTĀYA DUṢṬA HŪṂ.

Ấn tam muội này hay khế hợp với tất cả pháp Kim Cương Minh, hay ngầm khiến tất cả tam muội mau chóng hiện ra Thanh Cảnh Quán Thế Âm Ấn: Chắp tay, trống rỗng lòng bàn tay. Co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay. Hai ngón trỏ đều nắm lóng trên của ngón cái.

Hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út hơi co đầu ngón trụ nhau Chân Ngôn của Ấn:

Án bát đầu mễ nễ la kiến chế thấp phộc la, bộ lỗ bộ lỗ, hồng.

OṂ. PADME NĪLAKAṆṬHI JVALA BHRŪ BHRŪ HŪṂ.

Ấn tam muội này hay ngầm thành tựu tất cả tam muội.

Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Ấn: Hợp cổ tay dính nhau, hai ngón cái đều co nằm ngang trong lòng bàn tay. Đều đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út nắm ngón cái làm quyền.

Mặt quyền hợp nhau… Mặt mắt vui tươi, phát Tâm Đại Bi Chân Ngôn của Ấn:

Án 1 tao danh dưỡng, bà na nê bả la tỉ na xá sai dã, hồng.

OṂ. SAUMYA VADANE PRABHINNA ŚĀSATA HŪṂ.

Ấn tam muội này hay ngầm thành tựu Pháp của tất cả Minh Vidya không có chỗ chướng ngại.

Y Thủ La Thiên Ấn: Chắp tay, lòng bàn tay trống rỗng. Kèm dựng hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út cùng hợp đầu ngón. Đều co hai ngón trỏ đè trên lóng giữa cảnh ngón giữa như móc câu. Hai ngón cái cách nhau bốn phân 2/mười nămdm.

rồi dựng nghiêng sao cho đầu ngón cách đầu ngón trỏ tám phân 4/mười nămdm Chân Ngôn của Ấn:

Án bát đầu mễ thấp phộc lý sa đà dã, hồng.

OṂ. PADMEŚVARĪ SĀDHAYA HŪṂ.

Ấn tam muội này triệu tập tất cả Y Thủ La Thiên đều đến hội trụ rồi âm thầm hộ giúp.

Ma Hề Thủ La Thiên Ấn: Dựa theo Ấn lúc trước, sửa ngón trỏ trái dựng thẳng rồi hơi co lại. Sửa hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón, đèn lên vạch thứ nhất trên cạnh hai ngón vô danh.

Chân Ngôn của Ấn: Án y mộ kì thấp phộc lý hồng.

OṂ. AMOGHEŚVARĪ HŪṂ.

Ấn tam muội này trị phạt tất cả quỷ thần tệ ác.

Diệm Ma Vương Ấn xưa nói Diêm La Vương là sai lầm vậy: Hai tay đem tám ngón tay, bên phải đè bên trái, cài chéo cùng móc nhau trong lòng bàn tay sao cho mặt ngón tay dính nhau. Hai ngón cái đều dựng đứng tách mở hơi co lại cách nhau nửa Thốn 1/6dm. Trước tiên gấp hướng lên trên đầu, sau đó để trên trái tim. Đưa hai ngón cái lên xuống, qua lại.

Chân Ngôn của Ấn: Án sai ma lý đá lợi đá lợi hồng.

OṂ. SAMALE TĀRE TĀRE HŪṂ.

Ấn tam muội này triệu thỉnh Diệm Ma Vương đi đến ngồi trong hội, vui vẻ ngầm hộ giúp.

Thủy Thiên Ấn: Ngửa hai lòng bàn tay ngay bên dưới vú trái, hơi co năm ngón tay như cánh hoa sen. Tay phải úp lòng bày tay xuống ngay trái tim, đều dựng ngón cái ngón út rồi co trong lòng bàn tay.

Ngón trỏ ngón giữa ngón vô danh đều nung tách mở, đầu ngón tay cách nhau một thốn 1/3dm hơi co lại Chân Ngôn của Ấn:

Án na nga bát đầu nhĩ nễ hồng.

OṂ. NĀGA PADMINĪ HŪṂ.

Ấn tam muội này hô triệu tất cả các Đại Long Vương đều đến Đàn Hội, vui vẻ hộ giúp.

Tỳ Sa Môn Vương Bội cây bổng Ấn: Hai tay cùng hợp ngược lưng bàn tay, hai ngón trỏ hai ngón giữa hai ngón vô danh hai ngón út cùng móc ngược nhau, mặt ngón tay dính nhau. Dựng thẳng hai ngón cái hướng ra bên ngoài tách mở.

Liền gấp rút chuyển theo bên phải để ngay trái tim Chân Ngôn của Ấn:

Án dược khất sái địa bát để, tố lỗ tố lỗ hồng.

OṂ. YAKṢĀDHIPATI TURU TURU HŪṂ.

Ấn tam muội này hay tồi phá tất cả Dược Xoa, Quỷ Thần, tâm ác tan hoại.

Đại Phạm Thiên Vương Ấn: Tay trái dựa theo Thủy Thiên Ấn lúc trước, co khuỷu tay phải để bắp tay ngang bằng. Hơi co ngón cái hướng vào lòng bàn tay. Hơi co ngón trỏ cách đầu ngón cái một thốn 1/3dm. Ngón giữa, ngón vô danh, ngón úy cùng kèm nhau dựng thẳng.

Chân Ngôn của Ấn: Án y mộ kì một la khả ma lỗ đề, hồng.

OṂ. AMOGHE BRAHMA RŪḌHI HŪṂ.

Ấn tam muội này hay hiện tất cả Thiên Pháp của Phạm Thiên.

Khổ Hạnh Tiên Nhân Ấn: Dựa theo Phạm Thiên Ấn, tay phải.

Sửa ngón trỏ ngón cái nắm ngón giữa duỗi thẳng, co ngón út như móc câu Chân Ngôn của Ấn:

Án lý sử, phộc la nỉ y mộ già bộ nê, hồng.

OṂ. ṚṢĪ VARAṆE AMOGHA PUNE HŪṂ.

Ấn tam muội này triệu tập tất cả Khổ Hạnh Minh Tiên, chắp tay chí kính, vui khen, đỉnh lễ.

Tỳ Sắt Nộ Thiên Luân Ấn xưa nói là: Na La Diên Thiên: Chắp tay lại: Tay phải: Năm ngón tay đều bung tách mở.

Tay trái: Ngón trỏ, ngón gỡua, ngón vô danh, ngón út cài chéo nhau nhập vào khoảng rẽ thuộc lóng giữa của ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út của tay phải, ló ra ngoài nắm bốn ngón của tay phải. Đầu bốn trón của tau trái ấy để ngay khoảng rẽ của năm ngón tay phải. Ngón cái trái nắm lóng trên của ngón trỏ phải.

Dựng thẳng ngón cái phải Chân Ngôn của Ấn:

Án y mộ kì nhĩ sắt noa la bát đầu ma na bễ sa la sai mạn đả bộ nê toa phộc ha.

OṂ. AMOGHA VIṢṆU DHĀRA PADMA NABHĪ SARA SAMANTA PUNE SVĀHĀ.

Ấn tam muội này hay đập nát tất cả chúng A Tố Lạc kính phục chạy tan.

Đại Tự Tại Thiên Ấn: Tay trái: Co khuỷu tay, ngửa lòng bàn tay hướng về phía trước, năm ngón tay làm thế nắm quả trái lớn.

Tay phải: Co khủy tay ngang bằng bắp tay, ngón cái vịn trên móng ngón út. Đều dựng thẳng ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh tách mở.

Chân Ngôn của Ấn:

Án lỗ nại la, đổ trưng nhĩ lý, toa phộc ha.

Ấn tam muội này hay đập nát tất cả Ngược Quỷ quỷ gây bệnh nóng sốt, bệnh sốt rét, Thực Tinh Khí Quỷ Quỷ ăn tinh khí đều sợ hãi chạy tan.

Đại Tự Tại Thiên Nhi trẻ con Ấn: Tay phải: Duỗi thẳng ngón trỏ, co ngón cái nằm ngang trong lòng bàn tay, đem ngón giữa, ngón vô danh, ngón út nắm chặt làm quyền. Tay trái cũng đồng với tay phải. Để cạnh của quyền phải trụ trên eo, hướng ngón trỏ về phía trước. Để cạnh quyền trái trên trái tim, hướng ngón rỏ ra ngoài chỉ, trợn mắt rất giận dữ.

Chân Ngôn của Ấn:

Án thước chật để đà lê y mộ già phộc để toa phộc ha.

OṂ. ŚAKTI DHĀRE AMOGHA VATI SVĀHĀ.

Ấn tam muội này hay giáng phục tất cả quỷ thần gây chướng ngại.

Nhật Thiên Tử Ấn tiếng Phạn là A nật để gia: Āditya: Hai tay ngửa lòng bàn tay, cạnh bàn tay dính nhau. Hai ngón cái đều co ngang trong lòng bàn tay, đều co ngón trỏ đè lóng trên của ngón cái.

Hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út đều kèm nhau, hơi co lại hướng vào lòng bàn tay Chân Ngôn của Ấn:

Án sa khả tắ la, kế la nê hồng, đô lý toa phộc ha.

OṂ. SAHASRA KIRAṆE HŪṂ DHURI SVĀHĀ.

Ấn tam muội này hay phóng trăm ngàn ánh sáng. Nhật Thiên ngầm hộ giúp.

.Nguyệt Thiên Tử Ấn tiếng Phạn là Tố Ma: Soma: Dựa theo lúc trước ngửa lòng bàn tay, cạnh bàn tay dính nhau. Hai ngón cái đều duỗi thẳng, hai ngón trỏ đều dựng rồi hơi co lại.

Hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út đều co lại nắm quyền Chân Ngôn của Ấn:

Án tố ma bả la bễ, hồng.

OṂ. SOMA PRABHE HŪṂ.

Ấn tam muội này được các Tinh Thiên chiếu sáng hộ trì.

Bạch Đức Thế Tôn! Ấn tam muội gia như vậy, nỗi mỗi hay thành tất cả sự nghiệp, hay diệt tất cả tai ách, tội chướng rồi rộng trang nghiêm.

Y Mộ Già Vương Quảng Đại Giải Thoát Liên Hoa Mạn Noa La tam muội gia. Người tu hành này, thân thường tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo sạch thơm, nên ăn thức ăn thanh tịnh, đối với các hữu tình khởi tâm đại bi, cung kính Hòa Thường A Xà Lê.

Tâm luôn tôn trọng cung kính cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, thọ trì pháp đấy cầu Phật Bồ Đề. Cũng đừng tham, khiến người chẳng đồng nghiệp, chẳng phải là A Xà Lê của mình với người chẳng biết rõ pháp, người chẳng cầu Bồ Đề… hòa tạp làm pháp, trình nói cảnh giới.

Thường tự mình kín đáo yên lặng siêng năng tu học, dùng hương bột, hương xoa bôi xoa trên bàn tay, đốt hương cúng dường, xoay vòng kết nơi Ấn trì, đừng để lộ Ấn kết sẽ vi phạm tam muội gia. Tùy theo mỗi một tướng của Ấn tam muội gia, quán chiếu đồng hiện, tụng ba biến.

Làm pháp trì tụng, sám hối, phát nguyện, hành đạo, lễ tán… ngày ngày đạt được các nhóm phước lớn có công đức gấp bội trăm ngàn câu chi.

Nên vì tất cả Như Lai, các Đại Bồ Tát ở mười phương, nhận chức thọ ký riêng, tất cả Chư Thiên vui vẻ âm thầm hộ giúp, được nơi cúng dường cực lớn của thế gian, đầy đủ thành tựu tất cả Đà La Ni Chân Ngôn Đàn Ấn.

Ngay nơi sinh ra, chẳng bị chết yểu, được Bất Không Tất Địa Đại Chân Ngôn Minh Tiên Luân Vương tam muội gia, có đại tuệ biện rồi ở trong tất cả Thiên Tiên, đại chúng diễn nói pháp này được đại vô úy, được người tôn trọng, nên muốn được sinh trong Hội của Quán Thế Âm Bồ Tát.

Nếu khi hết mạng thời thân tâm vắng lặng như vào thiền định, liền được tất cả Chư Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát một thời hô nói: Phật Tử chân thật hãy đến trong cõi nước của ta, cõi của ta là nơi sinh trưởng cư trú của ngươi.

Từ đời này về sau cho đến bồ đề chẳng bị rơi vào ba đường, đường ác nữa, đời đời chẳng chẳng nhận noãn thai thấp hóa sinh theo bốn cách: Trứng, bào thai, nơi ẩm ướt, biến hóa, tuổi thọ luôn chẳng lùi, từ một Cõi Phật đến một Cõi Phật, hóa sinh trong hoa sen, đủ túc mệnh trí.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần