Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn - Phẩm Một - Phầm Mẫu đà La Ni Chân Ngôn - Tập Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT KINH BẤT KHÔNG
QUYẾN SÁCH THẦN BIẾN CHÂN NGÔN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM MỘT
PHẦM MẪU ĐÀ LA NI CHÂN NGÔN
TẬP MỘT
Như vậy tôi nghe!
Một thời Đức Bạc Già Phạm Bhagavaṃ: Thế Tôn trụ trong cung điện lớn của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát Avalokiteśvara tại núi Bổ Đà Lạc Potala.
Cái điện ấy thuần dùng vô lượng vật báu lớn thượng diệu trân kỳ xen kẽ lẫn nhau để trang sức, mọi báu đan chéo nhau thông suốt, phát ra lửa sáng lớn. Nơi nơi treo bày hình nửa vành trăng, hình trăng tròn đầy, chuông lắc tay báu, chuông bằng bàng, viên ngọc báu, chuỗi Anh Lạc…
Khi gió nhẹ thổi qua thì lay động đều diễn âm thanh thuyết pháp Dharma svara: Pháp âm. Lọng báu, phướng, phan, hoa lạ hiếm có, nhiều loại phất trần, lưới châu báu, vòng hoa, mọi loại bày đầy khắp dùng để trang nghiêm. Nhiễu quanh cái điện, phần lớn có lầu báu, gác báu xen lẫn với màn trướng báu.
Các cây hoa báu, mỗi mỗi xếp bày thành hàng là: Hoa cây Sa La báu, hoa cây Đa La báu, hoa cây Đa Ma La báu, hoa cây Chiêm Bặc Ca báu, hoa cây A Thú Ca báu, hoa cây A Để Mục Đa Ca báu với vô lượng ức ngàn vạn loại các cây hương báu khác, tỏa hơi thơm phức… vây quanh trang nghiêm.
Lại có vô lượng cái ao, suối, đầm báu chứa đầy nước tám công đức. Nơi nơi đều có hương, hoa, cỏ mịn… mọi bông hoa soi chiếu lẫn nhau rất đáng yêu thích.
Ngọn núi ấy, phần lớn có mọi loại tất cả chim, thú khác loài với hình mạo xinh đẹp, đều có đủ Tâm Từ Maitra citta phát ra mọi âm thanh màu nhiệm, cùng nhau kêu hót vui chơi.
Tất cả Bồ Tát, Chân Ngôn Minh Tiên, Tam Thập Tam Thiên cùng chung vui thích nơi Đức Như Lai đã cư ngụ, cùng với chúng Đại Bật Sô gồm tám ngàn người đến dự, đều là bậc A La Hán Arhat trụ ở Đại Trí, hiểu rõ cùng tận, dạo chơi ở thế gian, danh tiếng cao xa, có đại thần thông tự tại vô ngại… đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật theo bên phải ba vòng, rồi ngồi tại tòa của mình.
Lại cùng với chín mươi chín ức câu chi na dữu đa trăm ngàn Đại Bồ Tát đến dự, đều dùng Phạm Hạnh Brahma caryā trong trắng, thông đạt vô lượng vô biên Môn Đà La Ni Chân Ngôn Tam Ma Địa, cũng đầy đủ tất cả Trí màu nhiệm thâm sâu.
Các Bồ Tát này đều có đủ vô lượng công đức thù thắng, giả sử ở ức kiếp khen ngợi cũng chẳng thể hết được, lễ hai bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật theo bên phải ba vòng, rồi ngồi tại tòa của mình.
Lại có vô lượng trăm ngàn Tịnh Cư Thiên Vương Śuddhāvāsa, Y Thủ La Thiên Vương Iśvara, Ma Hề Thủ La Thiên Vương Maheśvara Đại Phạm Thiên Vương Mahā brahma, Đế Thích Thiên Vương Indra tiếp nối gìn giữ Phật Pháp khiến chẳng đoạn tuyệt.
Đều phát Hoằng Nguyện ưu thích sâu xa Đại Thừa Mahāyāna đều cầm phướng báu, phan, lọng, ngọc báu, chuỗi Anh Lạc, hoa Trời kỳ diệu… đều đến chỗ của Đức Phật, lễ hai bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, làm cúng dường lớn, ca tán một lúc rồi ngồi tại tòa của mình.
Lại có vô lượng Ma Ha Đại Trì Chân Ngôn Minh Tiên Mahā vidya dhāra ṛṣi, Khổ Hạnh Tiên Chúng Duṣkara caryā ṛṣi gana, Diệm Ma Vương Yama rāja, Thủy Thiên Varuṇa, Phong Thiên Vāyu, Hỏa Thiên Agni, Nhật Thiên Āditya, Nguyệt Thiên Candra, Tinh Thiên.
Nhị Thập Bát Tú Chủ Tinh Thần Thiên, Trì Chân Ngôn Minh Nữ Thiên Vidya dhāra devī kèm với Thiên Chúng Deva gaṇa khác… đều dùng tâm sâu xa thề phát hoằng nguyện, đều cùng nhau cung kính hộ trì Đại Thừa, đều đến chỗ của Đức Phật, lễ hai bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, mắt quán nhìn Đức Như Lai, vui vẻ rồi lặng lẽ ngồi tại tòa của mình.
Lại có vô lượng các Đại Long Thần Mahā nāga devatā, Dược Xoa Yakṣa, La Sát rākṣasa, Càn Thát Bàn Gandharva, A Tố Lạc Asura, Nghiệt Lỗ Trà Garuḍa, Khẩn Na La bKiṃnara, Ma Hô La Già Mahoraga phát hoằng thệ nguyện ca tán Đại Thừa, đều cùng nhau thủ hộ Môn Vô Thượng Đà La Ni Chân Ngôn, đều đến chỗ của Đức Phật, lễ hai bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, chiêm ngưỡng Đức Như Lai, mắt chẳng nhìn nơi khác rồi ngồi tại tòa của mình.
Bấy giờ, Tôn Giả Bạc Già Phạm Chánh thức vì Tịnh Cư Thiên, Y Thủ La Thiên. Ma Hể Thủ La Thiên, Đại Phạm Thiên, Đế Thích Thiên với các Thiên Chúng… ngồi ở tòa Liên Hoa Sư Tử báu rồi nói Đại Pháp, vượt hơn mọi ánh sáng của mặt Trời chiếu sáng tất cả.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát Avalokiteśvarāya bodhisatvāya mahā satvāya vui vẻ, mỉm cười, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, chắp tay cung kính, lễ hai bàn chân của Đức Phật, chỉnh sửa quần áo, quỳ thẳng lưng, cái chéo bàn tay, hướng về phía trước bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con có Đà La Ni tên là Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia.
Pháp này, ở thời quá khứ cách nay chín mươi mốt kiếp, trong kiếp cuối cùng ấy có Đức Phật hiệu là thế gian Tự Tại Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Bạc Già Phạm Lokeśvara rāja tathāgata. Đức Phật Thế Tôn ấy thương xót con, nên trao cho tất cả Pháp Môn của Đà La Ni Chân Ngôn này. Thế Giới của Đức Phật ấy tên là Thắng Quán Sát Tuệ.
Thế Tôn! Từ đó đến nay con thường thọ trì tất cả giáo pháp của Đà La Ni Chân Ngôn này, chỉ đường cảm hóa đạo hóa vô lượng trăm ngàn Tịnh Cư Thiên Vương, Y Thủ La Thiên Vương, Ma Hề Thủ La Thiên Vượng, Đại Phạm Thiên Vương, Đế Thích Thiên Vương, tất cả Thiên Vương với các quyến thuộc, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi…
Đều khiến trụ ở A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Anuttarāsamyaksaṃbuddhi: Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều dùng Trí lìa lưới nghi Ly Nghi Võng Trí mà trang nghiêm.
Thế Tôn! Khi con bắt đầu được Pháp Đà La Ni đó thời chứng được mười trăm ngàn Bất Không Vô Hoặc Trí Trang Nghiêm Thủ Tam Ma Địa Môn đều hiện trước mặt.
Thế Tôn! Nên biết do sức của Chân Ngôn này, hiện thấy hết thảy Hội Chúng của Chư Phật Như Lai ở vô lượng vô số chủng chủng cõi nước khắp mười phương, rồi đều cúng dường, lắng nhe pháp sâu xa, triển chuyển giáo hóa vô lượng hữu tình đều được phát hướng đến vô thượng bồ đề Agra bodhi. Thế nên, Hành Giả nên thọ trì hết.
Thế Tôn! Nếu Kinh Điển này đã trụ ở phương xứ nào thì nên biết đất ấy liền có vô lượng trăm ngàn Tịnh Cư Thiên Vương, Y Thủ La Thiên Vương, Ma Hề Thủ La Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Đế Thích Thiên Vương với mười hai vạn trăm ngàn Thiên Vương kèm các quyến thuộc thường cùng nhau vây quanh cung kính ủng hộ.
Thế Tôn! Nếu Kinh Điển này trụ ở phương xứ nào, có người hay y theo pháp, thanh tịnh viết chép, đọc tụng, thọ trì, khen ngợi thì nên biết đất ấy tức là Chế Đa Caitye: Tháp Miếu Xá Lợi Śarīra của tất cả Chư Phật.
Thế Tôn! Nếu có hữu tình tạm hay đọc tụng, lắng nghe, lưu hành Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này thì nên biết người đó tức đang gần gũi, cung kính, cúng dường vô lượng câu chi na dữu đa trăm ngàn chỗ của Phật, gieo trồng các căn lành.
Tại sao thế?
Vì Pháp này là nhóm ánh sáng báu lớn của tất cả Chư Phật.
Thế Tôn! Nếu có hữu tình gây tạo nghiệp cực ác, chê bai tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn với chê bai chánh pháp, nói không có tốt lành Kuśala: Thiện.
Hoặc lại phá diệt hình tượng, Tháp Miếu, Kinh Luận, Giáo Pháp của Chư Phật, Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn thì kẻ đó đáng bị rơi vào địa ngục A Tỳ Avīci trải qua vô số kiếp, chịu khổ không gián đoạn. Chư Phật, Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn tuy có đủ thần thông cũng chẳng thể cứu được.
Thế Tôn! Như hữu tình này, hay sinh Tâm hối hận, tắm gội sạch sẽ, dùng hương xoa bôi thân, mặc áo sạch mới, như Pháp ở trước mặt Phật chí thành sám hối tội nặng đã tạo làm trong quá khứ, đời hiện tại, cuối cùng chẳng dám phạm, thọ trì trai giới, thanh tịnh tâm ấy.
Bảy ngày bảy đêm giữ giới chặt đứt Ngữ Luận, ở trước mặt Bất Không Quyến Sách Quán Thế Âm Bồ Tát Amogha pāśa avalokiteśvara bodhisatva, mỗi ngày tụng Đà La Ni Chân Ngôn này một trăm lẻ tám biến thì nên biết các tội: Mười ác, năm nghịch, bốn nặng mà người ấy đã tạo làm trong đời trước, đời này đều diệt hết không có dư sót, chẳng rợi vào địa ngục, chỉ trừ năm nghịch thì đời này chịu nhẹ hơn.
Làm sao chứng biết?
Ấy là: Một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày bị bệnh sốt rét, bệnh sốt nóng hoặc bị đau mắt, tai, mũi, lưỡi, nứu lợi chân răng, răng nanh, răng, đầu, lưng, hai vai, tim, dạ dày, hông sườn, eo, bắp đùi, hai cánh tay, hai đầu gối, bệnh trĩ, kiết lị.
Hoắc Loạn dạng bệnh trong bụng như đau ruột, đau dạ dày…, bàn tay, bàn chân, đau buốt bức rức, cùi hủi, trúng gió, ung nhọt, ghẻ chóc, mụn nhọt mưng mủ, du thũng, đinh thũng, rôm sảy, ung nhọt độc, bệnh vàng da, đái môn, mụn đầu đanh, mụn nước, bệnh ngứa, bệnh điên, yểm cổ…
Hoặc bị Quỷ Thần gây nhiễu loạn, hoặc bị người dân quở trách, chê bai, nhục mạ, mắng chửi… bị roi vọt, ngăn cấm, chịu khác khổ não, gặp việc ác khác, hoặc mộng chẳng lành…
Thế Tôn! Người này do chịu nhận các việc nhẹ hơn đấy, sẽ hay trừ được tất cả tội báo ứng nặng nể cực khổ ở địa ngục. Huống chi là hữu tình tội nhẹ có niềm tin trong sạch, thọ trì Đà La Ni Chân Ngôn này mà chẳng thành tựu ư!
Nếu có hữu tình, thân tâm chẳng an, bị mọi loại tai ách đáng sợ, mộng ác chẳng lành thì ngày ngày thanh khiết đọc tụng, thọ trì, đốt hương cúng dường, liền được tiêu diệt.
Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện như pháp viết chép, thọ trì, đọc tụng, lắng nghe pháp này.
Vì người như Pháp tuyên nói, khen ngợi, dạy bảo người khác viết chép, thọ trì, đọc tụng, rộng khiến cho tất cả hữu tình sinh trong bào thai thai, sinh trong trứng noãn sinh ở nơi ẩm thấp thấp, sinh theo cách biến hóa hóa được nghe Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này, đều được giải thoát tất cả tội chướng. Nhóm kẻ trai lành, người nữ thiện đó nên tịnh tâm ấy, như lý suy nghĩ.
Dùng trí không có chỗ đắc vô sở đắc trí, trí không có phương xứ vô phương xứ trí, trí không có ta không có người không có người nhận chịu vô ngã vô nhân vô thọ giả trí, trí không có phân biệt vô phân biệt trí, trí không có đi chậm vô trì hành trí, trí không có tạo tác không có nhiễm vô tác vô nhiễm trí.
Trí của tính bình đẳng bình đẳng tính trí, trí lìa năm uẩn, hình sắc, âm thanh, mùi ngửi, vị niếm, cảm xúc, pháp cảnh, không có lấy không có bỏ, tinh tiến ly ngũ uẩn sắc thanh hương vị xúc pháp vô thủ vô cả tinh tiến trí.
Dùng mọi loại Chân Như Xảo Trí đó chế ngự nơi tâm mà làm phương tiện, quán niệm Chư Phật thường thấy trước mắt, chẳng lâu sẽ được trăm ngàn tất cả Chư Phật ở mười phương một thời hiện trước mặt, xoa đỉnh đầu, khen ngợi, vì mình làm chứng minh.
Hoặc lại trong mộng, lúc tỉnh được thấy tướng tốt. Hoặc được Chư Phật biến làm Sa Môn vì mình trao cho Bồ Tát Tăng Thượng Giới Phẩm khiến diệt tất cả tội nặng trong vô lượng trăm ngàn vi trần số kiếp, cho đến như Pháp viết chép Kinh đó an trí trong nhà, dùng hương hoa tùy theo Tâm cúng dường, tôn trọng, lễ bái thì công đức có được cũng lại như vậy.
Thế Tôn! Nay tạm lược nói chút phần như thế. Nếu hữu tình vì Tâm muốn thắng người khác, ganh ghét, lừa dối. Hoặc bị khủng bố, tài lợi, khinh rẻ, đùa cợt y theo tâm của người khác… thì người đọc tụng, lắng nghe Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này đều được thắng lợi. Hoặc lại nghe xong, phỉ báng Kinh này rồi chẳng cung kính cũng được thắng lợi.
Thế Tôn! Nay lợi ích này chỉ có người Đại Trí biết, lại là sức Uy Thần cùa Thế Tự Tại Vương Như Lai, là sức Đại Từ Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát khiến cho các bọn ác, tất cả hữu tình một lần trải qua lỗ tai sẽ gieo trồng được vô lượng căn lành.
Tại sao thế?
Thế Tôn! Ví như có người dùng tâm si ác đi đến rừng Long Não Hương, Bạch Đàn Hương, Trầm Thủy Hương, hoặc các rừng hương… dùng trí ngu si, mọi loại chửi mắng hương, lại khởi Tâm giận dữ chê bai, nói Hương này thật không có mùi thơm.
Lấy hương cắt gọt giã nát làm bột hòa với nước, rồi ăn uống, hoặc xoa bôi trên thân… hương này không có tâm, chẳng cùng với hương kia. Do tính của hương đó hay xông ướp tất cả khiến cho vật không có mùi thơm đều được thơm phức.
Thế Tôn! Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Mẫu Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia này cũng lại như vậy. Nếu có hữu tình nói không có nhân quả, dùng mọi loại phỉ báng cầu điều ác chẳng có lỗi lầm. Hoặc bị tất cả tai nạn do ganh ghét, lừa dối, tiền tài, thức ăn… mà thọ trì, đọc tụng rồi làm cúng dường.
Do Nhân Duyên đó thường được căn Đại Thiện, từ thân này về sau, nơi sinh ra thường được: Hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến, hương tư lương phước có uy đức không có sợ hãi, tất cả hương phước tụ uẩn bền chắc chẳng hoại của Bồ Đề. Hương viên mãn của dòng tộc quý tính… đang tạo làm nhiêu ích.
Thế Tôn! Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện thọ trì, đọc tụng Đà La Ni Chân Ngôn này nên thường vào ngày tám, hoặc ngày 14, hoặc ngày mười năm của kỳ Bạch Nguyệt mười năm ngày đầu của tháng tắm gội sạch sẽ, dùng hương xoa bôi thân, mặc quần áo sạch, ăn ba loại thức ăn màu trắng.
Hoặc lại chẳng ăn, dứt các ngôn luận, ở trước mặt Bất Không Quyến Sách Quán Thế Âm Bồ Tát như pháp mà ngồi, đốt mọi hương thơm tốt, chiêm ngưỡng mặt của Bồ Tát, tụng bốn mươi chín biến hoặc một trăm lẻ tám biến.
Thế Tôn! Nên biết người đó ở trong đời hiện tại liền được hai mươi loại khen ngợi công đức thắng lợi.
Thế nào gọi là hai mươi?
1. Thân không có mọi bệnh. Nếu có nghiệp đời trước sinh ra bệnh thì mau khiến trừ khỏi.
2. Thân có da mềm mại, xinh tươi tuyệt đẹp.
3. Luôn được mọi người quán nhìn yêu thích chẳng có chán ghét.
4. Sáu Căn thường định, tài bảo tự nhiên.
5. Chẳng bị giặc cướp xâm đoạt quần áo, tài bảo.
6. Chẳng bị nước cuốn, lửa đốt tất cả tài bảo.
7. Chẳng bị xâm lăng, giết hại, cưỡng đoạt cướp lấy tài bảo khiến cho bị đót khát mà chết.
8. Chẳng bị té ngã từ sườn núi xuống mà chết.
9. Gia trì vào tro sạch, nước sạch… rưới vảy lên tất cả quả trái, mầm lúa thì gió ác, sương, mưa đá, loài trùng thú đều chẳng thể gây tai nạn, mầm lúa được tươi tốt.
10. Chẳng bị quân trận đấu tranh mà giết hại chết.
11. Chẳng bị các quỷ thần ác trong thế gian ăn hút tinh khí, oán thù hại chết.
12. Thường được mọi người xưng tán khen ngợi mến mộ, chẳng bị chết trong giờ ác.
13. Nếu thấy tất cả ngoại đạo, người ác thì tự nhiên hòa kính.
14.. Chẳng bị tất cả người ác phỉ báng mưu hại. Nếu có người khởi lên thì mau tự diệt ngay.
15. Luôn không có sợ hãi tất cả hàng Người, Phi Nhân.
16. Chẳng bị yểm cổ, chú trớ, quỷ trà chỉ ni Ḍākiṇī trong thế gian được dịp thuận tiện hại chết.
17. Tất cả các ác, tùy miên phiền não tự nhiên tiêu bớt.
18. Chẳng bị chết do nước cuốn, lửa đốt, đao, tên, thuốc độc, trùng độc ương hại thân.
19. Tất cả Chư Thiên thường đang ủng hộ.
20. Ngay nơi sinh ra, có đủ đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, bốn tâm không có ngăn ngại.
Thế Tôn! Lại có tám pháp.
Thế nào gọi là tám?
1. Khi lâm chung thời Quán Thế Âm Bồ Tát tự biến hiện thân làm tướng Sa Môn khéo léo dẫn đường cùng đến Cõi Phật.
2. Khi lâm chung thời thân thể chẳng đau đớn, đi đứng tự tại như nhập vào thiền định.
3. Khi lâm chung thời mắt chẳng nhìn ngược hiện tướng ác mà chết.
4. Khi lâm chung thời tay chân an ổn, nằm nghiêng theo hông bên phải mà chết.
5. Khi lâm chung thời đại tiểu tiện chẳng tuôn ra phân dính máu ác mà chết.
6. Khi lâm chung thời chẳng mất chánh niệm, chẳng nằm sấp mặt, ngồi ngay ngắn mà chết.
7. Khi lâm chung thời được mọi loại biện thuyết khéo nói pháp màu nhiệm sâu xa rồi mới chết.
8. Khi lâm chung thời nguyện sinh về Cõi Phật, tùy nguyện sinh về cõi nước thanh tịnh của Chư Phật, hoa sen hóa sinh, thường thấy tất cả Chư Phật, chúng Bồ Tát Ma Ha Tát, luôn chẳng chuyển lùi.
Thế Tôn! Nếu có hữu tình ưa thích sâu xa pháp này, tức liền vì họ nói. Hoặc có phát tâm, dốc sức cầu pháp này thọ trì đọc tụng thì cũng chẳng bủn xỉn, y theo pháp rộng vì họ phân biệt giảng nói.
Tại sao thế?
Vì Bồ Tát đối với các hữu tình thường khởi bi trí, không có tâm bủn xỉn tiếc rẻ, ganh ghét… mới được tu trì pháp vô thượng. Lại nữa, Bồ Tát luôn vì hữu tình siêng tu pháp thiện. Thế nên được tên gọi chân thật là Bồ Tát.
Nói Bồ Đề Tát Đỏa Bodhisatva là nghĩa thế nào?
Bồ Đề Bodhi gọi là Trí Jñāna, Tát Đỏa Satva gọi là Bi Kāruṇa, bày khắp mọi nghĩa của phương tiện Upāya. Dùng hai Pháp này cứu giúp hữu tình, mới được tên gọi là Bồ Đề Tát Đỏa.
Nếu Đức Thế Tôn cho phép con thì con sẽ vì lợi ích tất cả nhóm kẻ trai lành, người nữ thiện với hữu tình có tà kiến Mithyā dṛṣṭi, Đoạn Kiến Uccheda dṛṣti, tuệ ác… ở trước mặt Đức Như Lai, nói Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia. Nguyện xin rũ thương chấp nhận.
Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai bảo Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Ông hãy nói đi! Nay chánh là lúc! Như Lai tùy vui gia bị cho ông. Nay ta cũng vì lợi ích cho tất cả hữu tình ít phước nhiều bụi dơ trong đời ác với vì Bồ Tát mới học trụ Đại Thừa, rộng làm lợi lạc cho làm việc Phật.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát nương theo sự nghe hứa của Đức Phật, liền vui vẻ mỉm cười, chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng Đức Như Lai chẳng chớp mắt, rồi bạch rằng: Nay Đức Thế Tôn Như Lai đã nghe hứa cho con nói Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Mẫu Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia đấy. Pháp này mới là điều mà tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát cùng nhau tu trì cung kính, đỉnh lễ được nơi giải thoát, thương xót thế gian, lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình.
Nếu người thọ trì, trước tiên nên kính lễ tất cả Chư Phật, các Đại Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn trong ba đời Namastryadhvānugata pratiṣṭhitebhyaḥ sarvabuddhabodhisatvebhyaḥ pratyeka buddha āryaśrāvaka.
Tiếp theo, nên Kính lễ Chánh Chí Chánh Hạnh Từ Thị Bồ Tát Ma Ha Tát Chúng Namaḥ samyaggatānāṃ samyak apratipannānāṃ āryāmaitreyapramukhebhyo mahābodhisatva saṃghebhyaḥ.
Tiếp theo, nên Kính lễ Kim Sắc Quang Minh Hống Thanh Tự Tại Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Suvarṇa varṇa supratibhāsa vinartiteśvara rājāya Tathāgata arhate samyaksaṃbuddhāya.
Kính lễ Sư Tử Du Hý Vương Như Lai Siṃha vikrīḍita rājāya Tathāgata.
Kính lễ Vô Lượng Quang Như Lai Amitābhāya Tathāgata.
Dựa theo sự xem xét văn của bản Phạn. Nếu tụng trì khác, tức lược Kính lễ Phật Bồ Tát đẳng, từ Từ Thị Bồ Tát trở xuống, lược đến Kính lễ Vô Lượng Quang Như Lai, từ Vô Lượng Quang Như Lai lược đến chỗ Kính lễ Phật Pháp Tăng Bảo đẳng.
Kính lễ Thiện Trụ Ma Ni Bảo Tích Vương Như Lai Supratiṣṭhita maṇikūṭa rājāya Tathāgata.
Kính lễ Phổ Quang Minh Tán Thán công đức Tích Vương Như Lai Samanta raśmyudgata śrikūṭa rājāya Tathāgata Kính lễ Thắng Quán Như Lai Vipaśyine Tathāgata.
Kính lễ Bảo Kế Như Lai Śikhine Tathāgata.
Kính lễ thế gian Tự Tại Vương Như Lai Lokeśvara rāja Tathāgata.
Kính lễ Xả Ly Tổn Hoại Uẩn Như Lai Krakucchandāya Tathāgata.
Kính lễ Kim Sắc Thân Tịch Như Lai Kanaka muṇaye Tathāgata.
Kính lễ Ẩm Quang Như Lai Kāśyapāya Tathāgata.
Kính lễ Năng Tịch Như Lai Śākyamuṇaye Tathāgata.
Kính lễ Thiện Danh Xưng Như Lai Suprakīrtita nāmadheyāya Tathāgata.
Kính lễ Phổ Quang Minh Thắng Oán Địch Đức Như Lai Samantāvabhāsavijita saṃgrāma śrīye rājāya Tathāgata.
Kính lễ Đế Tràng Đức Như Lai Indra ketu dhvaja śrīye Tathāgata.
Kính lễ Bảo Quang Minh Tự Tại Vương Như Lai Ratna prabhāseśvara rājāya Tathāgata.
Kính lễ Vô Ngại Dược Vương Như Lai Apratihata bhaiṣajya rājāya Tathāgata.
Kính lễ Dũng Mãnh Du Bộ Như Lai Vikrānta gāmine Tathāgata.
Kính lễ Thiện Trụ Vô Úy Như Lai Atītānā gata pratyutpanna Tathāgataya.
Kính lễ Phật Bảo, Pháp Bảo, Bật Sô Tăng Bảo Namo buddhāya, namo dharmāya, namo saṃghāya.
Kính lễ Bậc Đại Bi là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Āryāvalokiteśvarāya bodhi satvāya mahā satvāya mahā kāruṇikāya.
Kính lễ các bậc Thánh như vậy xong, tụng Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Mẫu Đà La Ni Mật Ngôn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Hai Mươi Tám - Kinh Thay Mũi Vợ
Phật Thuyết Kinh Lục độ Tập - Chương Một - Bố Thí độ Vô Cực - Kinh Số sáu
Phật Thuyết Kinh Bảo Nữ Sở Vấn - Phẩm Một - Phẩm Vấn Tuệ
Phật Thuyết Kinh Chư Pháp Tập Yếu - Phẩm Ba Mươi Bốn - Diệu Lạc
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Thiện Xảo Phương Tiện - Phần Ba