Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Bốn - Phẩm Long Vương Tắm Thái Tử - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẬT THUYẾT KINH
BỒ TÁT ANH LẠC HIỆN TẠI BÁO
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM BỐN
PHẨM LONG VƯƠNG TẮM THÁI TỬ
PHẦN BA
Lúc này Bồ Tát tâm ý an nhiên, chăm chú lặng nhìn cũng không nói năng gì mà chỉ suy nghĩ: Như ta hôm nay vì người mà thuyết pháp, giảng giải về đạo quả thanh tịnh không thoái chuyển, không mang tính chất phân biệt tôi ta.
Các pháp là như nhiên, cuộc sống cũng thế, tùy theo căn trí của mỗi người mà thuyết giảng chánh pháp. Tánh của muôn pháp là tự như thế, không hề biến đổi. Huống chi chúng sinh có người lãnh hội được pháp ấy.
Chúng sinh vốn thanh tịnh, không bị cấu nhiễm, nên tạo lập trí tuệ để tâm phát thệ nguyện rộng lớn, nên suy cứu để thấy muôn loài thảy đều thanh tịnh. Vốn thanh tịnh như nhiên, vô ngã như nhiên, vô hình như nhiên, người vật như nhiên.
Thế nào gọi là vốn thanh tịnh như nhiên?
Từ lúc xa xưa đến nay tuy luân chuyển trong cõi sinh tử, từ lúc phát tâm cầu đạo cho đến khi nhập Niết Bàn, vốn luôn được thanh tịnh, vì vậy mà gọi là vốn thanh tịnh như nhiên.
Thế nào gọi là vô ngã như nhiên?
Vốn có nay không, nay có vốn không, cũng không thể nói rằng ngã. Gốc của ngã là sinh từ có. Lại cũng không thể cho rằng có là từ ngã sinh ra, ngã không tự biết rằng vô ngã là có, cũng không tự biết rằng có là có. Vì vậy mà gọi là vô ngã như nhiên.
Thế nào gọi là vô hình như nhiên?
Vô hình ấy như tâm thức, thần diệu, thọ mạng, ba cú nghĩa ấy luôn tồn tại không biến đổi. Nơi không là không, nơi hình là hình, nơi có là có, nơi tướng là tướng, nơi vô tướng là vô tướng. Sự nhận biết về vô hình, tánh của nó là không, như nhiên, vì vậy mà gọi là vô hình như nhiên.
Thế nào gọi là người, vật như nhiên?
Tìm tòi suy cứu về người, vật không thấy được chốn gốc gác, ý thức ảo hóa nên không đạt được cội nguồn của đối tượng. Do mê muội lầm lạc cùng hợp lại nên cho rằng đây là cha, đây là mẹ, là Quốc Độ, tài sản, vợ con… dần dần sinh ra các tưởng nên tham đắm trong ba cõi.
Ta nay đã vĩnh viễn lìa bỏ chúng, đem tính chất như nhiên ấy mà thông đạt không tuệ. Không tuệ là như nhiên, các pháp cũng thế. Các pháp là như nhiên là đạt đến bậc Chánh Giác lại cũng là như nhiên.
Tất cả các pháp chỉ là giả hợp danh hiệu, do từ hiệu mà có danh cũng lại là như nhiên. Luận bàn về như nhiên mới thật là luận bàn về các pháp không sinh diệt. Vì thế nên gọi là người, vật như nhiên.
Ta nay nếu diễn nói về các pháp không tịch, chúng sinh sẽ không tin mà còn tăng thêm bao lớp lưới nghi hoặc. Ví như ta lại thuyết giảng các pháp về hình chất thì chẳng thể đạt đến tận ngọn nguồn.
Hay là nên diệt độ?
Vả như thích nghi với tịch tĩnh thì Hiền Thánh đều im lặng.
Bấy giờ có vị Thiên Tử tên là Bảo Anh, thông đạt tâm niệm của Bậc Giác Ngộ cùng hành Phật tánh, sáu đường đều thấu triệt, tỏ ngộ nhất tướng, hoàn toàn lìa bỏ tám pháp thế gian, không còn bị phiền não chi phối, có thể nhận lấy việc chuyển pháp luân.
Tuyên giảng các lời dạy của Phật, bốn Thánh Đế cùng trí tuệ giác ngộ, dứt diệt tức thì mọi cấu uế, gồm đủ năm phần pháp thân của Như Lai, đạt được đạo quả sáu thứ thần thông vô ngại, hình thần luôn du hóa khắp chốn, không có nơi nào bị chướng ngại.
Có được đủ bảy Giác ý để tự trang nghiêm thân tâm, tám nẻo hành hóa chân chánh đều gồm đủ cùng với pháp bất cộng, bốn vô úy, dũng lực như Kim Cang không gì có thể hủy hoại. Do vậy mà biết được sự im lặng của Bồ Tát, biết vì sao Hiền Thánh không muốn đem giáo pháp diễn giảng cho chúng sinh.
Lúc này Thiên Tử Bảo Anh liền rời chỗ ngồi đứng dậy, để trần vai bên phải, đến trước Đức Phật chắp tay cung kính thưa: Kính bạch Thế Tôn! Con nay không dùng Phật nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn và cả thiên nhãn để quan sát các loài chúng sinh, luôn hợp với pháp luật của các bậc Hiền Thánh.
Con nay chỉ dùng nhục nhãn để xem thấy hằng sa các Quốc Độ trong mười phương, về những người nên thọ nhận việc chứng đắc, những người tu tập thiền định hoặc tại nhất trụ cho tới thập trụ.
Lại thấy các bậc Thiện Nam sắp sửa thành tựu đạo quả Phật Đà, các bậc Nhất sinh bổ xứ không hề thoái chuyển, dốc lòng đi tới Đạo Tràng để trang nghiêm cây Bồ Đề.
Hết thảy các bậc ấy đều nên được theo Bồ Tát nhất sinh bổ xứ để nghe pháp bình đẳng, các pháp bất nhị, từ đó mọi chí nguyện vì đạo thảy đều được thành tựu.
Bấy giờ, Thiên Tử Bảo Anh ân cần khuyến thỉnh cho đến ba, bốn lượt, lại dùng kệ để bày tỏ lời xưng tán:
Tôn nhan không gì sánh
Nét mặt như trăm hoa
Giẫm đất tự xưng hiệu
Tiếng vượt Phạm Thiên âm
Kiến lập cõi trí tuệ
Thuyết pháp chẳng hữu vô
Chúng sinh chấp tưởng thường
Tịch nhiên nẻo bất nhị.
Hào quang tỏa mười phương
U tối thấy ánh sáng
Bậc quý Nhân Trung Tôn
Nay nên dốc quy kính.
Vô số đời khổ hạnh
từ bi khó có hai
Công đức đã viên mãn
Nay con dốc quy kính.
Chính tán dương Tôn Túc
Chân, tay, thân tướng tốt
Da lông bảy chốn phẳng
Dáng đứng phải trái cân
Cánh tay, ngón thon nhỏ
Vân tay tỏa đều đặn
Lưỡi dài, rộng, vô úy
Nét ngàn cánh hoa sen
Bốn mươi răng khít đều
Sắc như ngọc tuyết trắng
Vào các lúc thuyết pháp
Môi tươi như ngọc ánh
Tám thanh chẳng nam nữ
Cũng chẳng âm thư hùng
Cảm ứng khắp mười phương
Lắng nghe không hề chán
Tai vuông đeo ngọc báu
Như châu minh nguyệt ngời
Mắt xem rõ trắng đen
Trên dưới thảy đều tỏ
Tóc đầu sắc xanh sẫm
Nhục kế lông xoay phải
Tướng tốt không bến bờ
Dáng trông như núi vàng
Mọi đức trang nghiêm thân
Cũng như hoa đua nở
Tiêu diệt mọi bụi bặm
Ba cõi một mình bước.
Vô số loài chúng sinh
Khắp mười phương cùng hợp
Muốn được nghe chánh pháp
Đạo Vô thượng tối thắng
Trời, Người, Rồng, Quỷ Thần
Dốc ngưỡng mộ nghe pháp
Xin rủ thương muôn loài
Mau chuyển bánh xe pháp.
Bấy giờ, các vị Đại Phạm Thiên Vương trong khắp mười phương Thế Giới, các vị Thức Càn Thiên Vương là hàng thượng thủ trong số tám mươi bốn ức Thiên Vương, liền rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, để trần vai bên phải, đến trước Đức Phật, quỳ mọp, chắp tay cung kính, dùng kệ để tán dương Phật:
Không đắm lìa mọi uế
Lậu dứt, không hề nhiễm
Hành ứng hợp giáo pháp
Ý đạt tuệ thông, vô
Gốc tại Trời Đâu Suất
Thuyết pháp như nước cuốn
Vì sao nay tịch nhiên
Chẳng nở hoa tuệ tỏ
Hào quang chiếu u minh
Xua sạch mê ba đời
Mười lực không nhiễm đục
Mong được lúc diễn pháp
Hôm nay khắp mười phương
Chư Bồ Tát vân tập
Thảy cùng muốn được nghe
Pháp chưa từng tuyên giảng
Ý tịnh, hành dứt lậu
Như thể trăng trong sao
Phật quá khứ cùng nguyện
Mong được lúc thuyết pháp.
Chúng sinh nay chìm đắm
Biển sinh tử nổi trôi
Xin đem thuyền bình đẳng
Cứu vớt kẻ ngụp lặn
Hào quang thật lồng lộng
Phủ che cả nhật nguyệt
Xua trừ mọi phiền não
Thanh tịnh không chút bợn
Thế Tôn gốc nguyện lớn
Dũng mãnh không hề vơi
Ý từ bi bình đẳng
Thuyết pháp không tăng giảm
Giới đủ, cùng thiền tịch
Lực thần túc vô úy
Pháp vô úy không tướng
Chánh thọ nhập khắp cõi
Gốc tu pháp Lục Độ
Tâm sạch mọi lo buồn
Ý khiêm cung kính lễ
Các Bậc Sư, Tôn Trưởng
Do vậy hiện nhục kế
Không kẻ dám xem thường
Huống chi tâm muốn bày
Thấy đỉnh tướng Như Lai
Mười phương thương thị hiện
Giáng Thần độ muôn loài
Chúng nhân cùng khao khát
Mong được chuyển pháp luân.
Phạm Thiên Vương Thức Càn đọc bài kệ tán thán xong bèn đi vòng quanh Đức Phật ba vòng rồi trở lại tòa ngồi cũ.
Lúc này Thích Đề Hoàn Nhân liền rời chỗ ngồi đứng dậy, để trần vai bên phải, sửa soạn lại y phục, quỳ mọp chắp tay, ba lần tự xưng danh hiệu: Con là Thiên Đế Thích tên là Câu Dực, xin được quỳ trước Bồ Tát để tán dương:
Không lời, hợp tịch tĩnh
Không dạy, hạnh tự đủ
Không tập, hợp vô biên
An nhiên hợp vô vi
Bản hạnh hiện vô tướng
Nay đạt quả không, vô
Nên lễ Thần hư không
Tịch nhiên, dứt lời, dấu.
Tại đời giác ngộ được
Ban vui kẻ khốn cùng
Chỉ dẫn nẻo chánh kiến
Mù tối nhận nẻo chính
Chúng sinh mãi lầm lạc
Mong nghe pháp cam lồ
Mong mở kho vô tận
Nhuần thấm khắp Trời, Người
Hành từ, gốc tu đức
Phương tiện không giảm tăng
Diễn rộng pháp vô vi
Muôn người đều đầy đủ
Bậc Thế Tôn khó gặp
Chánh pháp cũng khó tìm
Muốn được gặp Thánh Hiền
Cũng lại chẳng thể được!
Chư Như Lai quá khứ
Thành Chánh Giác nơi đây
Mong được lúc phục thần
Gắn bó cõi đời này
Tôn gốc thích nhàn tĩnh
Tư duy đạo vô vi
Gốc thệ nguyện đạt quả
Làm sao ở chốn động?
Diêm phù năm vạc trôi
Lửa nước cũng dữ dội
Duy nguyện mau xuất gia
Lìa tham dục trói buộc
Con nhớ đời quá khứ
Chư Phật thành Chánh Giác
Liền đến nơi Thọ Vương
Sớm ngồi, chiều thành đạo
Tôn Giả nay có nghi
Mới muốn vui sinh tử
Ân ái như thành hư
Vui ấy sao tham luyến!
Đời đầy nỗi sống chết
Chỉ đạo luôn tịch nhiên
Ân ái như ánh chớp
Huyễn hóa chẳng chân thực
Thế gian đầy tăm tối
Năm lớp sử phủ che
Mong được khai tuệ sáng
Chiếu tỏa được thấy khắp.
Biến hóa vô số hình
Thích ứng trước muôn loài
Theo đúng hạnh nguyện gốc
Hành thiền lực sung mãn.
Như nay sao lại tĩnh
Chẳng chuyển bánh xe pháp
Mong được lúc diễn rộng
Đói khát được no đủ.
Nhớ gốc nẻo tạo phước
Tích chứa từ nhỏ ít
Đạt đến bậc Thiên Vương
Cõi trị không bờ bến.
Cung phụng Chư Như Lai
Thời quá khứ đắc đạo
Bốn Phật Nhất bổ xứ
Thế Tôn chính hiện tại
Vô số ức na thuật
Mãi chìm trong sinh tử
Mong đem xe nguyện lớn
Đưa ngay đến bờ giác
Nay xin khuyến thỉnh thuyết
Pháp cam lồ không chán
Tám nẻo mở dứt đắm
Không cấu nhiễm bụi bặm
Tôn Giả hoặc nhập định
Nên độ cõi chẳng độ
Mong trước hóa loài này
Kẻ tâm giữ chẳng động
Tánh hư không chẳng nhiễm
Luôn bình đẳng an nhiên
Không hướng chẳng thấy được
Duy nguyện dứt mọi nghi.
Chứa thâm diệu vô tận
Kẻ yếu nào giữ nổi!
Nay gặp Thiên Thế Sư
Xin mở khiến hiện khắp
Tôn Giả vốn nguyện độ
Cùng ngày chẳng đổi lúc
Như nay sao im lặng
Bao kẻ mê cầu độ!
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Năm - Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Hoa - Phẩm Mười Ba - An Lạc Hạnh
Phật Thuyết Kinh đại Tát Già Ni Kiền Tử Sở Thuyết - Phẩm Năm - Phẩm Vương Luận - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Bốn - Phẩm Long Vương Tắm Thái Tử - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh ương Quật Man