Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thiện Giới - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Nhuyến Ngữ - ái Ngữ Nói Năng Mềm Mỏng
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Ma, Đời Tống
PHẬT THUYẾT
KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cầu Na Bạt Ma, Đời Tống
PHẨM MƯỜI SÁU
PHẨM NHUYẾN NGỮ ÁI NGỮ
NÓI NĂNG MỀM MỎNG
Thế nào là tánh nhuyến ngữ của Bồ Tát?
Đại Bồ Tát nói năng vui vẻ, nói ra điều gì người nghe đều thích, nói lời chân thật. Nói đúng phép tắc, nói đúng nghĩa lý, nói lợi ích người. Đây mệnh danh tánh cách nói năng mềm mỏng hay tánh nhuyến ngữ của Đại Bồ Tát.
Vì sao gọi là Nhuyến ngữ tất cả?
Đại Bồ Tát hoặc gặp người mà trước đó chưa quen, Bồ Tát gặp rồi mở lời nhỏ nhẹ ra ý hỏi han và cùng đàm luận. Nếu thấy vị kia là người có đức, tánh tình đàng hoàng, Bồ Tát không vì đó mà ôm lòng đố kỵ.
Vì phá tâm kiêu mạn nên kính ý hỏi thăm:
Thân thể của Ngài được an ổn chăng?
Trong khi đi đường cực nhọc lắm chăng?
Thật là hân hạnh được gặp gỡ Ngài.
Liền đó Bồ Tát sắp đặt chỗ ngồi, cung cấp nước uống như cách thông thường của bao người đời. Bồ Tát tùy thuận lòng người và không vì người nói lời thô xấu, như nói đến sự giết chóc phá hoại, cướp đoạt, mất mát…
Chỉ nói đến việc đúng đắn hiền hòa, chẳng hạn như nói:
Con Ngài khôn lớn đã tính đến việc xây dựng gia thất cho các cháu chưa?
Của cải lúa thóc của cháu có được dồi dào hay chăng?
Cháu có kính tin Tam Bảo, thọ giới, bố thí, học rộng biết nhiều chăng?
Bồ Tát đầy đủ cách thức nói năng lợi ích chúng sanh.
Thế nên gọi là nhuyến ngữ tất cả.
Lời nói mềm mỏng, lời nói cởi mở có hai:
Tùy thuận thế gian.
Tùy pháp xuất thế.
Thế gian lại có hai:
Thế gian hạ giới, Cõi Dục.
Thế gian thượng giới, Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc.
Xuất thế gian cũng có hai:
Chánh pháp xuất thế tự lợi.
Chánh pháp xuất thế lợi tha.
Đại Bồ Tát vì pháp thế gian thượng, hạ mà nói lời mềm mỏng.
Vì tự lợi, lợi tha xuất thế nói lời mềm mỏng.
Đây gọi là nói năng mềm mỏng cởi mở.
Nhuyến ngữ khó khăn?
Nếu có kẻ đến mưu hại Bồ Tát, đối với kẻ đó Bồ Tát tưởng như con một, hết lòng nhỏ nhẹ nói với những kẻ đánh mắng cướp đoạt.
Lại nữa, nhuyến ngữ khó là: Đại Bồ Tát thường vì những kẻ si mê mà nhỏ nhẹ nói pháp, ba nghiệp thân, miệng, ý của Bồ Tát chịu nhiều khổ não.
Tuy chịu khổ lớn nhưng Bồ Tát vẫn liên tục dạy dỗ: Ngươi hãy siêng học rồi về sau này sẽ đồng như tôi hoặc sẽ hơn tôi. Đây gọi là nhuyến ngữ khó khăn.
Lại nữa, Bồ Tát gặp kẻ sân hận, những người ganh tị, kẻ nhiều bỏn sẻn, kẻ chẳng biết nghe lời thầy, khi dối bậc thầy, những kẻ chẳng biết nghe lời cha mẹ, khi người đức độ, những người ác hại, tà kiến cướp đoạt hay Chiên Đà La v.v…
Với những hạng này Bồ Tát cũng vẫn nói năng với họ một cách mềm mỏng, không ý nghĩ xấu về hạng người đó. Đây gọi là nhuyến ngữ khó khăn.
Tự nhuyến ngữ tất cả:
Gồm có bốn:
Nhuyến ngữ để phá nhân duyên phiền não.
Nhuyến ngữ để làm nhân duyên phước báo Cõi Người, Cõi Trời.
Nhuyến ngữ để làm nhân duyên tăng trưởng pháp lành.
Nhuyến ngữ để làm nhân duyên nói sự trang nghiêm vô thượng bồ đề.
Lại có bốn:
Nói bốn Thánh Đế cho người hiểu biết.
Vì phá bốn chấp điên đảo.
Vì phá bốn tánh buông lung.
Vì phá tâm nghi ngờ.
Đây gọi là tự nhuyến ngữ tất cả.
Nhuyến ngữ của người lành:
Khi Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, vì có nhân duyên cho nên nói pháp.
Nhân duyên nói cho đủ hiểu biết mà thuyết pháp.
Nhân duyên trang nghiêm vô thượng bồ đề mà thuyết pháp.
Nhân duyên sức thần túc mà thuyết pháp.
Nhân duyên sự trì giới mà thuyết pháp.
Thế nên các pháp từ duyên sanh ra, từ duyên mà diệt. Đây gọi là nhuyến ngữ của người lành.
Nhuyến ngữ trong tất cả hạnh?
Hoặc khi Bồ Tát thuyết pháp, có những điều nên nói cho người khác và có những điều cần phải che lấp, dùng lời mềm mỏng nói thuận pháp tánh, chữ nghĩa không lộn.
Thấy người sợ sệt, có thể dùng lời mềm mỏng an ủi cho người hết sợ. Gặp người cầu xin dùng lời dịu dàng hứa nhận cấp giúp. Đây mệnh danh là nhuyến ngữ trong tất cả hạnh.
Nhuyến ngữ trừ khử: Bồ Tát lìa bỏ lời nói hư vọng, lời nói hung dữ, lời nói đôi chiều, lời nói vô nghĩa. Thấy nói là thấy, nghe nói có nghe, rõ biết nói biết. Chẳng biết, chẳng nghe, chẳng hay, chẳng biết cũng nói đúng vậy. Đây gọi là nhuyến ngữ trừ khử.
Nhuyến ngữ tự lợi, lợi tha: Nếu thấy người chịu khổ, Bồ Tát vì họ nói lời nhỏ nhẹ, dùng lời mềm mỏng cảm hóa chúng sanh, dùng lời dịu dàng răn bảo chúng sanh, hoặc dùng lời nói nhỏ nhẹ chỉ bảo khiến kẻ tà kiến phát sanh chánh kiến. Hoặc dùng lời nhỏ nhẹ chỉ dạy chúng sanh làm việc bố thí.
Dùng lời nhỏ nhẹ chỉ dạy chúng sanh sống nghề chân chánh, hoặc dùng lời nhẹ giảng nói chánh pháp v.v… như thế gọi là nhuyến ngữ tự lợi, lợi tha.
Nhuyến ngữ vắng lặng?
Có hai mươi hai điều như đã nói trong phẩm điều phục từ trang một trăm hai mơi sáu đến nửa trang một trăm ba mươi tư.
Bị chú:
Phẩm này nguyên trong Kinh gọi là nhuyến ngữ. Đây là danh từ thuộc cựu dịch.
Những dịch phẩm được dịch từ thời Ngài Huyền Trang trở về trước, gọi là cựu dịch.
Từ Ngài Huyền Trang trở về sau gọi là tân dịch. Chúng tôi dịch ái ngữ là lấy theo tân dịch.
Cũng như danh từ nhuyến ngữ, hai danh từ lợi tha và đồng lợi ở hai phẩm kế tiếp đây đều thuộc cựu dịch.
Chúng tôi đổi lại là Lợi Hành và Đồng Sự cho hợp với danh từ tân dịch.
Ngoài những thuật ngữ căn bản trên đây còn có rất nhiều thuật ngữ cựu dịch khác nữa mà người dịch không thể ghi chú hết.
Điều đáng ngạc nhiên là bản Kinh này dịch vào đời Tống, kể như thuộc tân dịch mà nhiều thuật ngữ lại sử dụng theo lối cựu dịch.
LỢI HÀNH
Tánh lợi hành là gì?
Đại Bồ Tát vì răn dạy người khác mà phân biệt ý nghĩa về giới luật, nói về ý nghĩa như pháp an trụ, thương xót chúng sanh, tu tập lòng từ, hết lòng giáo hóa điều phục chúng sanh. Đây gọi là tánh lợi hành.
Tất cả lợi hành. Chúng sanh dầu chưa thuần phục, Bồ Tát đều làm cho được giải thoát, được vui hiện tại và vui đời sau. Dạy pháp xuất gia cho người gọi là sự vui đời sau.
Nói pháp giáo hóa khiến người phá diệt kiết sử Cõi Dục, gọi là sự vui hiện tại và vui đời sau. Bởi phá phiền não Cõi Dục cho nên thân tâm vắng lặng, thân tâm vắng lặng do đó cảm thọ một niềm an vui. Đây mệnh danh là tất cả lợi hành.
Lợi hành khó khăn:
Đây có ba điều:
Một là, nếu có những người chưa trồng căn lành chưa có nhân lành, khó nói để giáo hóa. Đây gọi là lợi hành khó khăn.
Hai là, hoặc có những người của cải dồi dào, thế lực tự tại mà tâm lại đầy tham lam của cải. Người như thế đó khó bề giáo hóa.
Vì sao?
Bởi tánh họ buông lung. Đây gọi là lợi hành khó khăn.
Ba là, hoặc kẻ ngoại đạo tà kiến cố chấp, khó thể giáo hóa.
Vì duyên cớ gì?
Bởi họ cuồng si. Những người như thế mà có thể dạy, khiến họ lợi ích quả là một điều khó khăn.
Tự Lợi hành tất cả:
Có bốn điều:
Người chưa đức tin khiến sanh đức tin.
Người chưa trì giới làm cho trì giới.
Người hay sẻn tham, giáo hóa khiến tu bố thí.
Người nhiều si ám, giáo hóa khiến được trí tuệ.
Đây gọi là tự lợi hành tất cả.
Lợi hành của người lành: Đại Bồ Tát giáo hóa làm cho chúng sanh hiểu biết chân thật, biết đúng thời, biết đúng nghĩa biết nói mềm mỏng, giáo hóa tu tập lòng từ v.v… đây gọi là lợi hành của người lành.
Lợi hành trong tất cả hạnh: Đại Bồ Tát thấy người nào đáng khen bèn dùng lời lẽ hay đẹp khen ngợi. Người đáng quở trách, dùng lời khổ khắc nghiêm nghị quở trách.
Nếu có chúng sanh phá mất niềm tin đối với chánh pháp, Bồ Tát có thể điều phục hạng ấy. Người chưa vào cửa Phật Pháp, Bồ Tát giáo hóa làm họ được vào. Người đã được vào liền vì giảng pháp khiến thêm căn lành.
Bồ Tát điều phục và đặt để họ vào ba thừa pháp. Còn đối với người căn cơ thuần phục, liền vì họ nói các môn giải thoát. Người ưa Thanh Văn, Bồ Tát chỉ dạy làm cho phát tâm vô thượng bồ đề.
Người chưa khéo trang nghiêm vô thượng bồ đề, Bồ Tát chỉ dạy khiến được trang nghiêm, người không quyết định, Bồ Tát chỉ dạy được tánh quyết định. Đây gọi là lợi hành trong tất cả hạnh.
Lợi hành trừ khử: Người không hổ thẹn, Bồ Tát chỉ dạy cho biết hổ thẹn. Người tánh thô lỗ, Bồ Tát dạy vẽ biết sử tâm tánh. Vì người ganh tị loại trừ thói ganh. Vì kẻ sẻn tham dứt tánh sẻn tham. Vì kẻ đa nghi phá trừ lưới nghi… đây mệnh danh là lợi hành trừ khử.
Lợi hành lợi tha: Đại Bồ Tát luôn luôn dùng mười thiện nghiệp giáo hóa tất cả chúng sanh, gọi là lợi hành lợi tha.
Lợi hành vắng lặng: Có mười pháp lành. Bên trong vắng lặng có năm. Bên ngoài vắng lặng cũng có năm.
Năm điều bên trong:
Một là, trong sạch.
Hai là, không thay đổi.
Ba là, thứ lớp.
Bốn là, có khắp.
Năm là, tùy thuận phép lành.
Trong sạch là sao?
Bồ Tát chẳng đem điều ác, điều không thanh tịnh, điều không đúng đắn mà giáo hóa người. Đây gọi là trong sạch.
Không thay đổi là gì?
Với sự giải thoát, Bồ Tát chẳng nói là không giải thoát. Với pháp thanh tịnh chẳng nói bất tin. Pháp không điên đảo chẳng nói điên đảo. Đây gọi là không đổi.
Đối với pháp nào chẳng phải giải thoát, Bồ Tát chẳng nói là pháp giải thoát. Với pháp bất tịnh chẳng nói là tịnh. Với pháp điên đảo Bồ Tát chẳng nói là không điên đảo. Như thế gọi là không đổi.
Thứ lớp là gì?
Gặp kẻ si mê Bồ Tát bèn nói nghĩa cạn dễ hiểu để điều phục họ. Với người trung căn nói pháp bậc trung. Với người lợi căn nói pháp bậc thượng. Trước nói bố thí, kế nói trì giới sau hết nói về trí tuệ sáng suốt. Đây gọi là thứ lớp.
Có khắp là gì?
Khi Bồ Tát nói pháp, không xem giòng dõi chúng sanh là giàu hay nghèo. Chỉ tùy vào sức, tùy trí của người mà nói giáo pháp, làm cho người nghe được niềm an vui. Đây gọi là có khắp.
Tùy thuận pháp lành như thế nào?
Bồ Tát quán sát chúng sanh, đáng được nghe pháp bậc hạ, bậc trung hay pháp bậc thượng, bèn theo trình độ vì họ giảng nói. Đây mệnh danh tùy thuận pháp lành.
Năm điều vắng lặng bên ngoài:
Một là, Đại Bồ Tát vì khắp chúng sanh, tu tập lòng từ vô lượng.
Hai là, vì khắp chúng sanh, Bồ Tát chịu đựng vô lượng sự khổ.
Ba là, chúng sanh vui ưa gặp gỡ Bồ Tát được sự lợi ích.
Bốn là, được sức tự tại rồi nhưng vẫn tùy thuộc chúng sanh như kẻ tôi tớ.
Năm là, Bồ Tát có đủ các oai đức lớn, nhưng vẫn khiêm tốn, tự hạ thấp mình như con của hạng Chiên Đà La.
Như trên gọi là vắng lặng trong ngoài.
ĐỒNG SỰ
Thế nào là Đồng Sự của Đại Bồ Tát?
Đại Bồ Tát đã thành tựu đầy đủ vô lượng pháp lành, lại đem pháp lành chuyển hóa chúng sanh. Đây gọi là Đồng Sự của Bồ Tát.
Đại Bồ Tát cùng một việc làm mà giáo hóa chúng sanh, chúng sanh nếu được nhận pháp lành rồi, tâm họ vững chắc không gì lay động.
Vì sao thế?
Chúng sanh biết rõ Bồ Tát đã thành thiện pháp này rồi, người mới xoay vần khuyến hóa đến ta được sự an lạc. Nếu tu pháp lành mà bị điều ác thì Đại Bồ Tát không bao giờ tu, rồi đem khuyên ta.
Khi Đại Bồ Tát khuyến hóa vô lượng chúng sanh đồng sự như mình. Thì không người nào có thể nói rằng Bồ Tát tự mình chẳng được thành tựu mà khuyến khích người.
Cũng không ai nói người tự chẳng đúng, làm sao khuyên người thực hành điều hành?
Lại nữa, Bồ Tát có vị tự mình thành tựu, nhưng lại chẳng hay khuyến hóa người khác. Có vị tự không thành tựu nhưng hay khuyến hóa người khác. Có vị tự mình thành tựu và cũng có thể khuyến hóa người khác. Có vị tự mình chẳng thành tựu cũng chẳng khuyến hóa người khác.
Tự mình thành tựu nhưng chẳng khuyến hóa người là: Chẳng tự nêu tỏ công phu của mình đối với những người đồng thầy, đồng học, đồng pháp và đồng đức hạnh.
Tự chẳng thành tựu mà hay khuyến hóa người khác là: Bồ Tát hoặc thấy những chúng sanh ác, thực hành việc ác như kẻ chiên đà la cho đến súc sanh. Vì điều phục hạng đó, Bồ Tát đồng chịu thân thể như họ, làm việc như họ để rồi đả phá nghiệp ác của những hạng này.
Tự mình thành tựu và có thể khuyến hóa người: Đại Bồ Tát tự thành tựu pháp lành, phá tâm kiêu mạn, phá tâm khinh khi thoái chuyển của người.
Tự mình chẳng thành tựu cũng chẳng khuyến hóa người là: Có Bồ Tát tự mình buông lung cho nên chẳng thể giáo hóa điều phục chúng sanh. Đại Bồ Tát dùng sáu pháp Ba la mật tự trang thân mình, dùng bốn nhiếp pháp trang nghiêm chúng sanh.
Đại Bồ Tát dùng sáu pháp Ba la mật tự điều phục tâm, dùng bốn nhiếp pháp điều phục tâm chúng sanh. Thân, miệng, ý của Bồ Tát trong sạch cho nên những pháp Bồ Đề trong sạch.
Tự tâm trong sạch, cho nên trong sạch được tâm của chúng sanh. Bồ Tát thành tựu tốt đẹp thân tâm, nên gọi là bậc vô thượng, vô thắng, vô cộng không gì trên, không gì hơn, không gì chung đồng.
Bởi ba nghĩa vô thượng, vô thắng, vô cộng này mà giáo hóa chúng sanh, thế nên gọi là đồng sự. Đại Bồ Tát đối với chúng sanh, đối với thời gian, đối với vật chất, đều không khởi niệm phân biệt.
Đối với chúng sanh không khởi phân biệt là: Bồ Tát vì chúng sanh mà thực hành bố thí Ba la mật cho đến bát nhã Ba la mật, cầu các pháp lành.
Đối với thời gian không khởi phân biệt là: Đại Bồ Tát trong tất cả thời gian, vì chúng sanh mà sinh lòng tinh tấn cầu các pháp lành.
Đối với vật chất không khởi phân biệt là: Đại Bồ Tát vì chúng sanh mà nhận chứa tạp vật, nhưng với những vật này tâm không tham đắm. Do nhân duyên ba sự không phân biệt này mà được vô thượng bồ đề. Bồ Tát cam vui tu tập tất cả hạnh lành, tâm không thoái thất hối đổi.
Bởi nhân duyên tu tập, nên có thể làm hư hoại những tà pháp, tà kiến của chúng sanh, chỗ tu học của tự mình càng tăng trưởng thiện căn, hết lòng quan sát công đức các hạnh lành, tất cả những tà kiến không thể làm ngăn trở, hư hoại.
Không hề tham cầu thân Chuyển Luân Vương, thân Thiên Đế Thích, thân Ma Vương hay thân Phạm Vương, chẳng cầu báo ơn, lợi dưỡng, danh dự hay sống lâu, sung sướng.
Bồ Tát tu tập những pháp như vậy tức được đầy đủ bố thí Ba la mật cho đến bát nhã Ba la mật.
Đây gọi là Đồng Sự. Khi Đại Bồ Tát tu hạnh Đồng Sự tâm không lay động, không hư hoại, trong sạch, vắng lặng, ánh sáng vĩ đại của trí tuệ không bị che lấp.
Đại Bồ Tát trụ tâm thanh tịnh, thực hành đầy đủ pháp lành vô thượng, pháp lành sáng chói, pháp lành sáng chói nghĩa là: Những sự thực hành pháp lành của Đại Bồ Tát tất cả những sự chê bai phá hủy không phá hủy nổi.
Tâm bất động của Đại Bồ Tát tu những pháp lành, những gì lay chuyển không lay chuyển nổi. Tâm ấy ngày đêm lớn dần như mặt trăng lớn dần từ lúc mới mọc.
pháp lành vắng lặng là gì?
Đại Bồ Tát chứng được chánh định vắng lặng đồng với Như Lai, gần kề vô thượng bồ đề.
Do nhân duyên tất cả sự bố thí, trì giới, tứ nhiếp cho nên Đại Bồ Tát được thân Kim Cang được quả Pháp Thân.
Do nhân duyên bố thí khó khăn, trì giới khó khăn của Đại Bồ Tát, cho nên Đại Bồ Tát chứng được quả báo vi diệu, công đức không thể nghĩ bàn của Như Lai.
Do nhân duyên tất cả tự thí, tự giới cho nên được quả báo: Các hàng Trời người phụng sự cúng dường. Do nhân duyên bố thí, trì giới của người lành, cho nên là bậc vô thượng đối với chúng sanh.
Do nhân duyên bố thí, trì giới trong tất cả hạnh, cho nên thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Như Lai.
Do nhân duyên bố thí, trì giới trừ khử, cho nên ngồi nơi Đạo Tràng dưới cội Bồ Đề, Ma Vương và quyến thuộc chẳng thể khuynh động.
Do nhân duyên bố thí, trì giới tự lợi, lợi tha, cho nên chứng được thường, lạc, giải thoát của Như Lai.
Do nhân duyên bố thí, trì giới vắng lặng cho nên được kết quả bốn sự vắng lặng: Thân vắng lặng, duyên vắng lặng, tâm vắng lặng, trí vắng lặng, mười lực, bốn vô úy, ba niệm xứ, đại bi, năm trí tam muội… vì khắp chúng sanh cho nên có mười tám pháp bất cộng. Vì trí tuệ lợi ích, cho nên có vô lượng pháp bất cộng của Như Lai.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Hai - Hai Pháp - Phẩm Mười Ba - Phẩm Bố Thí
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Chín - Phẩm Quang Minh Giác - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Quán Hai Vị Bồ Tát Dược Vương Dược Thượng - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bi đại ái - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm Tán Thán
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm Thập định - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai - Phẩm Thuần đà
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Mười - Phẩm Phân Biệt Hương đốt
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật Sao - Phẩm Mười Một - Viễn Ly