Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Vấn Bồ Tát Thập Trụ Trừ Cấu đoạn Kết - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Thân Khẩu ý - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH

TỐI THẮNG VẤN BỒ TÁT

THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM HAI MƯƠI NĂM

PHẨM THÂN KHẨU Ý  

TẬP HAI  

Khi ấy, Bồ Tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay bạch Phật: Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Con cũng nguyện muốn nói về trí tuệ của Bồ Tát làm thanh tịnh thân, khẩu, ý, mà hiện khắp tất cả không có quá khứ, hiện tại, vị lai.

Sự thanh tịnh như vậy, trụ mà không chỗ trụ, các pháp huyễn hóa không thể nắm bắt. Ví như ánh sáng mặt trời, mặt trăng hiện ở trong nước. Chư Phật Thế Tôn cũng như vậy, cũng không sinh diệt, không nhập Niết Bàn, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ Tát.

Phật bảo Tối Thắng: Thế nào, này thiện nam! Ông quán sát thế nào mà ở trước Đức Như Lai nói nghĩa này trụ mà không chỗ trụ?

Tối Thắng thưa: Chỗ trụ của Như Lai là Như như, chỗ trụ ấy cũng như chỗ trụ của chúng sinh.

Phật hỏi: Chỗ trụ của Như Lai là Như như, như chỗ trụ của chúng sinh là thế nào?

Tối Thắng thưa: Như chỗ trụ của chúng sinh là trụ của hữu vi, như không chỗ trụ.

Phật hỏi: Chỗ trụ của chúng sinh là trụ của hữu vi, như không chỗ trụ, là thế nào?

Tối Thắng thưa: Chỗ trụ của Như Lai là trụ vào mà không chỗ trụ.

Phật hỏi: Có phải từ Bậc nhất nghĩa không mà trụ không?

Tối Thắng thưa: Bạch Thế Tôn! Không phải.

Phật hỏi: Thế nào, này thiện nam! Chỗ trụ của Như Lai giống chỗ trụ của phàm phu không?

Tối Thắng đáp: Bạch Thế Tôn! Không phải.

Phật hỏi: Chẳng phải chỗ trụ của Như Lai là chẳng phải chỗ trụ của phàm phu, làm sao từ nơi ấy mà thành tựu Chánh Giác được?

Tối Thắng thưa: Không từ pháp Như Lai và pháp phàm phu mà thành tựu Chánh Giác.

Phật hỏi: Thế nào, này thiện nam! Quả vị Như như chí chân với địa vị phàm phu có gì sai khác?

Tối Thắng thưa: Bạch Thế Tôn! Muốn làm cho hư không có sự sai khác sao?

Phật bảo Tối Thắng: Tất cả các pháp đều không, vắng lặng không sai khác.

Tối Thắng bạch Phật: Do các pháp ấy không thể nắm bắt, tướng không có tướng, chỗ trụ như như, như không chỗ trụ.

Khi ấy, Bồ Tát Tối Thắng hỏi đồng chân Nhu Thủ: Nói trụ thì thế nào là trụ?

Nói không trụ thì thế nào là không trụ?

Đồng chân Nhu Thủ đáp: Gọi là trụ, ấy là chỗ trụ Như như, trụ mà không chỗ trụ. Lại nói. Hiểu bốn phạm đường trụ mà không chỗ trụ, cho nên gọi là trụ.

Ấy là trụ vào mà không chỗ trụ.

Tối Thắng hỏi: Vấn đề hỏi về trụ của ta là chẳng phải bốn phạm đường, cũng chẳng phải một loại, hoặc nơi vắng lặng, hoặc trong thôn xóm, hoặc chỗ gò vắng, dưới gốc cây, có thể gọi đây là trụ không?

Nhu Thủ đáp: Chỗ trụ của bốn phạm đường mà tôi nói là nơi ngăn chặn của tâm, khống chế không cho sinh khởi, gọi đó là trụ.

Tối Thắng hỏi: Thế nào là tâm làm chỗ dừng?

Nhu Thủ đáp: Nghĩa của trí tuệ là gốc nên gọi là dừng.

Tối Thắng lại hỏi:Trí tuệ không căn bản, không cứu cánh, có thể từ sự thấy biết mà thành chỗ dừng không?

Nhu Thủ đáp: Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Trước tự quán sát mình, sau đó trí tuệ mới thanh tịnh.

Tối Thắng hỏi: Này Nhu Thủ, trước tự quán sát mình là thế nào?

Nhu Thủ đáp: Các pháp vô ngã, đạt đến Như như, ngã tự vô ngã, không sinh cũng không phải không sinh. Đó là ta tự quán về ngã.

Tối Thắng hỏi: Giả sử Nhu Thủ vì từ nghĩa này, hay không từ nghĩa này mà chứng đắc.

Tự quán về ngã là quán hình tướng Phật, nếu có ngã thì có Phật không?

Ngã vốn là vô ngã, sao lại có Phật, cũng không thấy có nói năng, nói năng cũng vô ngã, làm sao quán hình tướng Phật được?

Nhu Thủ đáp: Nói quán ngã, ngã tức là vô ngã, đó là quán về ngã.

Vì sao?

Vì quán ngã tức là quán về các pháp. Quán các pháp tức là quán Phật. Phật là không hình tướng, không thể thấy.

Tối Thắng hỏi: Lại có phương tiện không thành tựu mà có thể thành chánh kiến không?

Nhu Thủ đáp: Có. Đây là phương tiện không thành tựu chánh kiến trong cảnh giới hữu vi.

Tối Thắng hỏi: Này Nhu Thủ, nếu như vậy là chánh kiến phải không?

Nhu Thủ đáp: Chẳng phải do chứng hoàn toàn, không phải quả báo, cũng chẳng chấp thủ quả nên gọi là chánh kiến.

Tối Thắng hỏi: Kiến là thế nào?

Nhu Thủ đáp: Không dùng tuệ nhãn để thấy các pháp, chẳng phải không dùng tuệ nhãn để thấy pháp, không có thấy, chẳng phải không thấy các pháp.

Vì sao?

Vì tuệ nhãn ấy thấy cảnh giới hữu vi, cũng thấy cảnh giới vô vi. Không có mắt hữu vi để thấy cảnh giới hữu vi và vô vi.

Tối Thắng hỏi: Này Nhu Thủ, có phương tiện nào từ những sự nhận thức ấy mà thành tựu quả vị của Tỳ Kheo không?

Nhu Thủ đáp: Cũng không từ sự thấy biết mà thành tựu quả vị, cũng không lìa những sự thấy biết để thành tựu quả vị ấy. Tối Thắng nên biết, tất cả đều do vọng chấp của năm cấu trược mà thành. Người hiểu được nghĩa này mới chứng đắc.

Tối Thắng hỏi: Do những dục gì mà thành năm cấu?

Nhu Thủ đáp: Cấu là gốc tâm, tâm là căn của đạo. Đạo thì vô hình, không thể thấy, nên gọi là quả chứng.

Tối Thắng hỏi: Đạo vô hình không thể thấy, thì sao có quả chứng?

Nhu Thủ đáp: Sự chứng đạo của tôi là do quả ấy, người thành tựu quả chứng tức chẳng phải đạo hay sao?

Phàm phu ngu muội cho quả chứng là đạo chăng?

Chớ nghĩ như vậy.

Vì sao?

Vì đạo chẳng phải quả chứng, quả chứng chẳng phải đạo, không xa lìa đạo, cũng không xa lìa quả chứng.

Tối Thắng hỏi: Đạo do quả chứng không sai khác sao?

Nhu Thủ đáp: Đạo là vô vi, không thể thấy, quả chứng hữu vi cũng không thể thấy, nên nói có sai khác.

Tối Thắng hỏi Nhu Thủ: Như lời ông nói từ hữu hạn đi đến vô hạn phải không?

Nhu Thủ đáp: Các pháp chưa sinh thì không thấy sinh, chẳng phải chẳng có sinh, sinh cũng không có sinh, không thấy đã sinh, chẳng phải không thấy có đã sinh. Nếu đã sinh rồi thì cũng không sinh nữa, các pháp không đang sinh, chẳng phải không đang sinh, hiểu rõ đang sinh đều không thật có. Đó là từ hữu hạn đi đến vô hạn.

Tối Thắng hỏi: Chẳng phải từ sinh đi đến vô hạn chăng?

Nhu Thủ đáp: Từ có sinh đạt đến vô hạn.

Tối Thắng hỏi: Từ vô sinh đạt đến vô hạn chăng?

Nhu Thủ đáp: Đúng vậy, từ vô sinh đạt đến vô hạn.

Tối Thắng hỏi: Này Nhu Thủ, từ có sinh đạt đến vô hạn, từ vô sinh cũng đạt đến vô hạn, vậy có gì sai khác?

Nhu Thủ đáp: Sinh cũng không sinh, không sinh cũng không sinh, đó là sai khác.

Tối Thắng hỏi: Sinh đã có hình, không sinh không tên gọi.

Tại sao có sai khác?

Nhu Thủ đáp: Ta nêu ví dụ cho ông, người có mắt nhờ ví dụ mà hiểu rõ.

Này Tối Thắng! Hư không có hình chăng?

Tối Thắng đáp: Không.

Nhu Thủ hỏi: Hư không có chánh kiến không?

Tối Thắng đáp: Không.

Nhu Thủ hỏi: Sao gọi là hư không?

Tối Thắng đáp: Vì hư không là không.

Nhu Thủ hỏi: Sao gọi hư không là không?

Tối Thắng đáp: Các pháp hư không là không.

Nhu Thủ hỏi: Thế nào là các pháp hư không là không?

Tối Thắng đáp: Các pháp không ngôn từ, không lời nói, không như hư không.

Nhu Thủ hỏi: Các pháp không ngôn từ, không lời nói, sao gọi không như hư không?

Khi ấy Tối Thắng im lặng không đáp.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tối Thắng: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hiểu đúng không, không phải đạo Niết Bàn. Đạo là không hình, cũng không thấy, không ngôn từ, không giảng thuyết, cũng không người nhận lãnh.

Khi nói pháp vô hình này, tất cả chúng sinh khen ngợi chưa từng có, chín ngàn Tỳ Kheo tâm hữu lậu giải thoát. Hai vạn bảy ngàn Thiên Tử dứt sạch trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Lại có một ngàn hai trăm Trời người phát Bồ Đề Vô Thượng, năm trăm vị Bồ Tát tại chỗ ngồi đắc vô sinh pháp nhẫn.

Bấy giờ, tại chỗ ngồi có Ma Vương Vô Úy cùng chúng của mình đến trước Phật thưa: Chúng con mê muội, mãi mãi bị tối tăm. Ngày nay mới được nghe giáo pháp vô tướng. Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng Kinh này thì chúng con luôn ủng hộ đến khi thành Phật mà không bị các nạn.

Liền nói chú Na la già la a tỳ ha ha. Đem chú này ủng hộ người nam, người nữ thọ trì đọc tụng Kinh Điển luôn ghi nhớ trong tâm.

Bấy giờ, Phạm Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, cùng với quyến thuộc đến trước Phật thưa: Chúng con luôn ủng hộ thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng Kinh Điển này trong khoảng một trăm, một ngàn do tuần.

Các thiện nam, thiện nữ không bị ngoại đạo nhiễu hại, liền ở trước Phật nói chú: Y ma tỉ châu na tỳ gia xa lê la. Chú này sẽ ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không bị các nạn.

Bấy giờ, Thích Đề Hoàn Nhân cùng với quyến thuộc đến trước Phật thưa: Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng Kinh Điển này, chúng con sẽ ủng hộ cho đến khi thành Phật, không còn bị các nạn.

Liền nói chú: Lưu giá da ma na na tăng cầu thời na tả. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không bị các nạn.

Khi ấy, ở phương Đông, Thiên Vương Đề Đầu Lại Trá cùng với quyến thuộc từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật thưa: Chúng con sẽ ủng hộ người nam, người nữ thọ trì đọc tụng Kinh Điển này cho đến khi thành Phật.

Liền nói chú: Đế na tứ na đế na tứ. Đem chú này ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật, không còn bị các nạn.

Khi ấy, ở phương Nam, Thiên Vương Tỳ Lâu Lặc Già cùng với quyến thuộc đến trước Phật, thưa: Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng Kinh này, đến khi thành Phật không còn bị các nạn.

Liền nói chú: Ma Ha tứ đà na tứ. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ cho đến khi thành Phật, không còn bị các nạn.

Ở phương Tây, Thiên Vương Tỳ Lâu Bác Xoa cùng với quyến thuộc đến trước Phật, thưa: Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng Kinh này thì chúng con sẽ ủng hộ đến khi thành Phật không còn bị các nạn.

Liền nói chú: Y nê di nê xa di. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không còn bị các nạn.

Ở phương Bắc, Thiên Vương Câu Tỳ La cùng với quyến thuộc đến trước Phật, thưa: Nếu có thiện nam, thiện nữ nào họ trì đọc tụng Kinh này thì chúng con sẽ ủng hộ đến khi thành Phật, không còn bị các nạn.

Liền nói chú: Đà thí đà la thí. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không còn bị các nạn.

Khi ấy, Vô Úy Ma Vương, Phạm Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhân và Tứ Thiên Vương, nói Thần Chú xong, nhiễu quanh Phật ba vòng, cúi Đầu Đảnh lễ nơi chân Phật rồi trở về chỗ ngồi.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần