Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tòng đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ - Phẩm Nhất - Phẩm Thiên Cung

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT TÒNG ĐÂU

THUẬT THIÊN HÀNG THẦN MẪU

THAI THUYẾT QUẢNG PHỔ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM MỘT

PHẨM THIÊN CUNG  

Tôi nghe như vậy!

Một thuở nọ, Đức Phật ở giữa rừng Song Thọ, phía Bắc thành Ca Tỳ La Bà Đâu, thuộc dòng họ Thích Ca, sắp xả thân mạng để nhập Niết Bàn.

Vào giữa đêm mồng tám tháng hai, Ngài đích thân gấp Tăng Già Lê, Uất Đa La Tăng và A Đà La Bạt Tát làm ba lớp rồi trải trong Kim Quan mà nằm lên trên, chân xếp chồng lên nhau, lấy bát, tích trượng trao cho A Nan.

Tám Vua ở nước lớn đều đem năm trăm tấm vải trắng tẩm hương Chiên Đàn đặt hết trong Kim Quan, dùng năm trăm tấm vải quấn Kim Quan lại rồi đem năm trăm cỗ xe chở hương tô du để rưới trên vải trắng.

Bấy giờ, Đại Phạm Thiên Vương đưa các Phạm chúng đứng bên phải, Thích Đề Hoàn Nhân dẫn Chư Thiên Đao Lợi đứng bên trái, Đại Bồ Tát Di Lặc và các Bồ Tát có thần thông ở mười phương đứng phía trước Ngài.

Khi sắp nhập Kim Cang tam muội nghiền nát thân Xá Lợi, Thế Tôn nghĩ rằng: Lành thay pháp bất tư nghì! Ta đã chuyển pháp chân thật ấy ở Thế Giới Ta Bà. Sau khi suy nghĩ như vậy, thế giới khắp mười phương chấn động sáu cách.

Khi ấy, Thế Tôn trong Kim Quan duỗi ra cánh tay vàng, hỏi A Nan: Tỳ Kheo Ca Diếp đã đến chưa?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn, chưa.

Thế Tôn lại hỏi: Tỳ Kheo Ngưu Úc đã đến chưa?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Vị ấy đã Bát Niết Bàn trên Cõi Trời, chỉ đem đến ba y và bình bát.

Phật bảo bốn chúng: Nay ta vĩnh viễn diệt độ.

Ngài liền vén vải vào trong Kim Quan, im lặng không nói, như vậy ba lần, rồi Ngài thò tay ra hỏi A Nan và bốn chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, cùng tám Vua nước lớn, Trời, Rồng, Quỷ Thần, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Càn Thát Bà, Nhân và Phi Nhân: Thế nào, này A Nan! Kinh Phương Đẳng Đại Thừa Ma Ha Diễn mà ta đưa ra từ đầu đến cuối, ông có thông đạt hết không?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con biết!

Phật nói như vậy ba lần và hỏi A Nan: Khi ở Cung Trời Đao Lợi, ta giảng pháp cho mẫu hậu Ma Gia, ông có biết không?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con không biết.

Phật hỏi A Nan: Thế nào, này A Nan! Khi ở trong cung, ta nói pháp cho Rồng, có vô số ức ngàn con Rồng đều đắc đạo, lưu lại toàn thân Xá Lợi một trăm ba mươi trượng, ông có biết không?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con không biết.

Phật dạy: Thế nào, này A Nan! Ta ở trong thai mẹ mười tháng.

Ta nói cho các Bồ Tát về pháp bất thối chuyển khó có, là hạnh bất tư nghì, ông có biết không?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con không biết.

Phật dạy A Nan: Ông hãy lắng nghe cho rõ và suy nghĩ cho thật kỹ. Bây giờ ta sẽ phân biệt rõ ràng từng chi tiết về hạnh khó có của Bồ Tát Đại Sĩ.

A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con xin muốn được nghe.

Phật dạy A Nan: Cách đây về phương Đông Nam một ức một vạn một ngàn sáu mươi hai hằng hà sa cõi, có Thế Giới tên Tư Lạc, Phật Hiệu là Hương Diễm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện Bát Niết Bàn mà đến Cung Trời Đao Lợi này.

Trải qua vô số A tăng kỳ kiếp đã ba mươi sáu lần làm Đại Phạm Thiên Vương, ba mươi sáu lần làm thân Đế Thích, ba mươi sáu lần làm Chuyển Luân Vương. Chúng sanh được độ không rơi vào nhị thừa và các đường ác.

Vì sao?

Vì tất cả đều do thần thông trí tuệ của Phật cảm vời ra.

Thế nào, này A Nan! Như Lai có ở trong thai hay không ở trong thai?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Thân Như Lai không ở trong thai.

Phật dạy A Nan: Nếu Như Lai không ở trong thai thì làm sao nói Như Lai mười tháng ở trong thai để chỉ dạy giảng pháp?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Có ở trong thai là hư tịch, còn không ở trong thai cũng lại là hư tịch. Khi ấy, Thế Tôn dùng thần túc hiện trong thân mẫu Ma Gia nằm, ngồi, kinh hành, trải đại cao tòa ngang rộng tám mươi do tuần, lan can bằng vàng bạc, dùng lụa Trời, lọng Trời treo trên hư không, trỗi những kỹ nhạc không thể tính kể.

Lại dùng thần túc đi từ phương Đông đến Thế Giới Ta Bà này có cả một vạn tám ngàn cõi, Bồ Tát Đại Sĩ đều đến vân tập. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc cũng vậy.

Ở phương Dưới có sáu mươi hai ức cõi, các Bồ Tát dùng thần thông đến dự đại hội. Phương Trên có bảy mươi hai ức không giới Bồ Tát cũng đến tập họp ở trong thai.

Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đứng dậy, đến bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các Đại Sĩ Bồ Tát đến đây vân tập là muốn nghe Ngài nói pháp bất tư nghì, các môn tam muội: Môn Không tam muội, đạo tánh tam muội, chân thật tam muội, hư không Vương tam muội, thệ tập chữ tam muội, thọ tánh tam muội, hành tích tam muội, hàng ma tam muội, trừ uế ô tam muội…

Cả ức ngàn na do tha tam muội như vậy thì hôm nay Như Lai nhập vào thai với tam muội nào để nói pháp bất tư nghì cho các Đại Sĩ?

Phật dạy Văn Thù: Ông hãy quán sát Bồ Tát các nơi nhất trụ, nhị trụ, cho đến Thập Trụ Nhất Sanh Bổ Xứ. Tất cả đều đứng theo địa vị của mình, không có lẫn lộn nhau.

Vì sao?

Vì nay ta sắp nói pháp bất tư nghì cho các Đại Sĩ. Đại chúng này đều thanh tịnh, không tạp nhiễm, dù cho các vị nhỏ nhất cũng không ô uế.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ với âm thanh thanh tịnh:

Xưa nay vô số kiếp

Thành vô số thân Phật

Nay nhập lại bào thai

Muốn độ các chúng sanh

Thân hành tịnh, không ác

Khẩu hành không dối trá

Ý hành luôn từ bi

Đạo Bồ Tát thanh tịnh

Thương xót loài chúng sanh

Luôn ở bốn sông lớn

Chấp thường và đoạn diệt

Hồi hướng đạo bồ đề

Được thân này rất khó

Đừng sanh tưởng ô uế

Nghĩ thân như gò mả

Nơi dã can rình rập

Kẻ ngu quá chấp trước

Đắm vào ái không bỏ

Thân này không trở lại

Ngày đêm dục rúc rỉa

Chín khổ là then chốt

Như bình đẹp đựng phân

Bị khát dục hành hạ

Vì sao sanh khổ não

Như biển chứa các sông

Kẻ ngu cho là thật

Thân chẳng phải Kim Cang

Đừng làm nhiều ác hạnh

Thọ thân thì phải chết

Sao không mau hành đạo

Nếu người sống ức kiếp

Họ còn phải bỏ dục

Huống sống chẳng đủ trăm!

Sao không biết dừng lại?

Người ngu luôn khen mình

Thân này nhờ phước trước

Mình nên hưởng khoái vui

Nhưng chưa vui liền chết

Dục này không lâu dài

Người trí không nắm giữ

Người nào muốn bỏ dục

Tuệ quán mười vô tưởng

Dục là pháp chẳng thật

Sanh diệt như bọt nước

Là vật ảo thuật tạo

Biến hiện rất nhiều hình

Kẻ ngu cho là thật

Tìm sự thật không được

Tánh không vốn nó không

Đầu cuối không sanh diệt

Phân biệt định vô tưởng

Dẹp sạch lậu chúng sanh

Văn Thù! Ông nên biết

Hội vô lậu mười phương

Ta nhập định lưu ly

Giảng rộng pháp phương đẳng

Hà Sa Phật mười phương

Nói như ta không khác

Thương các loài quần manh

Ở mãi trong nhà lửa

Ra khỏi thai, vào lại

Chết đây lại sanh kia

Chư Bồ Tát mười phương

Chứa hạnh hằng sa kiếp

Dù ở cõi Ta Bà

Kiếp năm trược khổ não

Như mười phương cõi ta

Phương ấy bằng cõi này

Xoay tròn trong năm đường

Thọ khổ đau đớn này

Giải không tướng vô định

Cũng không có bổn tế

Nghĩa hàn toàn một tướng

Tánh nó vốn không tịch

Luôn tưởng không sanh diệt

Hữu dư và Vô Dư

Xưa ta phát nguyện lớn

Thọ thai khắp năm đường

Trong hóa, thấp, noãn, thai

Cũng nói pháp hiếm có

Ai đắm trước năm ấm

Dạy họ vô sở hữu

Mười hai pháp móc nhau

Si, hành gốc sanh tử

Rơi trong bốn điên đảo

Dạy họ bốn chân thật

Khổ đế không có đế

Tập, tận, đạo cũng vậy

Dục, ngã, giới, kiến, thọ

Cũng giống như bốn ái

Phân biệt tánh chân thật

Hư không tịch vắng lặng

Tuy qua bờ sanh tử

Không trụ vào Niết Bàn

Nay ở trong thai mẹ

Nói pháp độ quần sanh

Trong Quốc Độ Ta Bà

Có vô số hằng sa

Ở trong thai nói pháp

Cứu độ A tăng kỳ

Hư không không ranh giới

Cõi Phật cũng như vậy

Chúng sanh thọ thần thức

Tánh chân thật khác nhau

Đem huệ sáng giáo hóa

Tùy theo loại mà độ

Hoặc hiện thân để độ

Nghe tiếng được giải thoát

Hoặc tư duy về khổ

Tập đế tận gốc đạo

Tư duy bốn ý chỉ

Đoạn ý, bốn thần túc

Năm căn và năm lực

Lấy bảy giác làm hoa

Tám phẩm đạo Hiền Thánh

Dùng để trang nghiêm thân

Phân biệt ngã không kia

Vô tưởng tịch tịnh huệ

Không mong cầu đều có

Luôn trụ không, vô huệ

Sơ nhập hữu giác định

Quán ba mươi bất tịnh

Nghịch thuận đều tỉnh giác

Nhập định giải vô quán

Chín định nhập lần lượt

Phân biệt không giác quán

Lại vui diệt tận đạo

Sơ định đủ năm pháp

Ý hỷ lạc đã diệt

An ổn nhập bốn pháp

Các Đại Sĩ trí tuệ

Không hành theo điều này

Vì các ma phiền não

Ứng trực trước chúng sanh

Qua nhiều kiếp thiền định

Thân gầy như cây khô

Xông ướp hương Tam Thiền

Năm chi không rời rã

Huệ Phật không thể lường

Là hữu, là bất hữu

Bậc Vô Thượng Chánh Giác

Không sanh, cũng không tử

Khi thành Phật đến nay

Ta du quán Tam Thiền

Nếu nhập vào Tứ Thiền

Không nói nhưng được độ

Ta quán cõi hư không

Chúng sanh không chỗ tựa

Thần lực trí Chư Phật

Mới biết tận nguồn gốc

Những vị học đoạn lậu

Chưa phân biệt được hết

Phẩm đạo rất thâm diệu

Nhị thừa không thể biết

Ta quán bằng Thiên Nhãn

Huệ nhãn và Phật Nhãn

Do bốn thức thọ hình

Nếu hóa hiện trong đó

Địa, thủy, hỏa hình sắc

Cũng không thể quán thấy

Chư Phật có thần lực

Mới đến bờ bên kia

Các Cõi Phật mười phương

Hằng sa A tăng kỳ

Lấy đạo huệ làm gốc

Dạo ở cõi hư không

Nếu như dùng nhục nhãn

Quán không giới chúng sanh

Miệng thở hơi ra vào

Vô số chúng sanh vào

Khi ấy những loài này

Đều được thành kiến đạo

Nên biết pháp thân Phật

Chân thật không nghĩ bàn

Phật chủ tướng ba cõi

Thương cứu thảy chúng sanh

Cõi Dục Sắc Vô Sắc

Để chứng được đạo huệ

Không còn lòng dâm, nộ

Và dòng họ nhà si

Thấy hình liền nhập đạo

Đâu cần học, vô học

Vô lượng các Cõi Phật

Thành đạo đều khác nhau

Có vị từ hữu tưởng

Có vị từ vô tưởng

Không tu tập lại nữa

chân như bốn Thánh đế

Bồ Tát thanh tịnh quán

Nhập thiền không chướng ngại

La Hán, Bích Chi Phật

Nhập định đều khác nhau

Đời đời không còn sanh

Thì đâu có gốc sanh

Kẻ ngu si chấp trước

Cho sanh đó là ngã

Chúng ta tự xưng ngã

Không thấy có ngã sở

Bồ Tát hành Tứ Thiền

Duyên Giác không thể biết

Bồ Tát nhập Sơ Thiền

Ba mươi hạnh vô lậu

Trăm bảy định tam muội

Thở ra vào đều đặn

Nhị định bảy mươi hai

Tự quán vô ngã tưởng

Dù qua bao kiếp khổ

Cũng không lìa thiền hành

Bốn trụ đoạn các lậu

Mới đạt Nhị Thiền này

Vì do dự sáu trụ

Nhập định như sóng nước

Tám vạn bốn ngàn hạnh

Vẫn còn không kềm chế

Vốn ta đối sáu trụ

Thối chuyển mười hai kiếp

Luôn sanh khởi tưởng lạc

Luân hồi vực sanh tử

Được Đức Phật Định Quang

Ký biệt tâm kiên cố

Lập chí không thối lui

Nên mới đạt Tam Thiền

Đoạn trừ bảy vạn cấu

Diệt sạch hết gốc rễ

Sư tử vô úy bước

Xiển dương đại pháp điển

Dạo hết các Cõi Phật

Lễ lạy, thờ cung kính

A tăng kỳ quá khứ

Chư Phật Đức Thế Tôn

Đều ở cõi của mình

Thệ nguyện làm Phật Sự

Dù tâm không thối chuyển

Nhưng luôn sợ sa đọa

Cả ức ngàn chúng sanh

Không làm động mảy lông

Hành vượt qua Bát Trụ

Thẳng vào đạo bồ đề

Những thú vui tham đắm

Diệt hẳn, không tưởng nhớ

Trừ thầy, tổ, mẹ cha

Còn lại không luyến nhớ

Mới thành hạnh nhất thiền

Gọi: Thí Độ Vô Cực

Tập quán không ai bằng

Cửu Địa thông bổn huệ

Không nhập vào diệt tận

Đến nơi tòa thành Phật

Làm duyên cho chúng sanh

Đi đến dưới cây Phật

Độ cả A tăng kỳ

Tập họp tại Đạo Tràng

Mười phương vô lượng cõi

Chư Đức Phật Thế Tôn

Đều duỗi thả tay phải

Lành thay Đại Sư Tử!

Mười lực, vô sở úy

Nhập sâu vào Tứ Thiền

Thương xót loài quần manh

Xin mau ra khỏi thiền

Để độ người chưa độ

Cứu thoát người chưa thoát

Bốn thức xứ tối tăm

Khao khát vị thiền duyệt

Không trái lời Phật dạy

Rồi liền tự ngợi khen

Lại tự mình suy nghĩ

Do thân này tạo ra

Chắc chắn nhập Niết Bàn

Để độ cho chúng sanh

Chư Phật đều hiện ra

Lành thay Thích Ca Văn

Lập ra ý nguyện lớn

Đừng sanh tâm thối lui

Chuyển pháp luân vô thượng

Đánh vào trống đại pháp

Người nghe mau giải thoát

Qua kiếp số không khó

Kiện trí, vô ngại trí

Biện trí, thông đạt trí

Đạo trí, minh huệ trí

Đoạn trí, vô sanh trí

Bất khởi tận diệt trí

Tiêu trí, chín bậc trí

Vô úy sư tử trí

Điện khổng âm hưởng trí

Đoạn tọa bất động trí

Đại bi vô ngại trí

Thân tướng trang nghiêm trí

Bạt khổ mẫn hộ trí

Kiết giải vô phược trí

Thọ biệt thủ chứng trí

Hàng ma phá quân trí

Thành vô ngã mạn trí

Ý dõng tinh tấn trí

Thí bất vọng báo trí

Hành nhẫn thọ nhục trí

Kim Cang thập lực trí

Trụ kiếp bất động trí

Tập chúng hòa hợp trí

Tối thượng Đạo Sư trí

Tàm quý pháp phục trí

Bồ Tát thệ nguyện trí

Thần túc biến hiện trí

Cảnh giới vô ngại trí

Đoạn ý diệt kiết trí

Thanh tịnh chiếu minh trí

Tự thức túc mạng trí

Huyền giám tha tâm trí

Phụ mẫu chân tịnh trí

Phân thân sát độ trí

Xử thai vô uế trí

Thức định bất loạn trí

Nhất hướng tín thọ trí

Nhập định quán sát trí

Phân biệt thân tướng trí

Tam thập bất tịnh trí

Diệt tai trừ hoạn trí

Bồ Tát thứ đệ trí

Siêu việt giáo hóa trí

Diệt thập nhị duyên trí

Duyên Giác thời ngộ trí

Thanh Văn thọ hóa trí

Xuất thập nhị nhập trí

Quán huệ vô ngại trí

Thọ đạo huyền giám trí

Nhất dạ vi kiếp trí

Dĩ kiếp vi nhật trí

Niệm Phật Phật hiện trí

Sát độ thanh tịnh trí

Vô hữu Nhị Thừa trí

Độc bộ vô úy trí

Duyệt khả chúng ý trí

Sở tác dĩ biện trí

Bất tạo tiền hậu trí

Diệt cố vô tận trí

Nhập định trừ tưởng trí

Quán nội ngoại thân trí

Như Lai thọ huệ trí

Hiền Thánh mặc nhiên trí.

Khi Đức Phật nói kệ này, cả ức trăm ngàn vô lượng chúng sanh đều tiến hết vào tín địa. Lại có mười hai Na Do Tha Bồ Tát ở quán hạnh địa, không trụ vào tam trụ mà thành tựu Cõi Phật. Ở phía bên phải có bảy vạn bảy ngàn ức chúng sanh đạt đến A Duy Việt Trí bất thối chuyển.

Phật dạy Văn Thù: Nay giữa đại hội này không có một người nào có cáu bẩn, ô uế xen lẫn, bị thối chuyển.

Vì sao?

Vì tất cả đều là những hàng lợi căn, không còn sanh tử, không còn bị trói buộc, không vướng mắc, không diệt, không sanh, tu đạo thanh tịnh, thọ chứng thành tựu, mong muốn ưa thích nghe chánh pháp bất khả tư nghì của Chư Phật.

Các vị đã chiến thắng chúng ma, khử trừ tâm kiêu mạn, bên ngoài mặc dù giáo hóa A tăng kỳ chúng sanh trong các Cõi Phật nhưng bên trong tâm du hý vô lượng trăm ngàn tam muội, những tam muội ấy là:

Sư tử phấn chấn tam muội.

Siêu hành đăng vị tam muội.

Quảng tấn siêu bộ tam muội.

Đồng chân nhạo pháp tam muội.

Tứ đạo sanh diệt tam muội.

Vô tưởng đẳng hành tam muội.

Vãng nghệ Bất Thối Đạo Tràng tam muội.

Quán sát chúng tâm tam muội.

Niệm Nhất Sanh Bổ Xứ tam muội.

Vô hình tượng tam muội.

Địa trung dõng xuất tam muội.

Giải phược chiến đấu tam muội.

Đảnh thọ tối thắng tam muội.

Chúng sanh hỷ kiến tam muội.

Nhập bất tư nghì tam muội.

Phật giới bất tư nghì tam muội.

Pháp giới trừ uế bất tư nghì tam muội.

Thánh chúng bất tư nghì tam muội.

Chúng sanh khởi diệt bất tư nghì tam muội.

Long lực hưng giáng bất tư nghì tam muội.

Tại chúng thượng trung vương bất tư nghì tam muội.

Dõng mãnh hàng phục oán bất tư nghì tam muội.

Thọ mạng vô lượng bất tư nghì tam muội.

Tại ngũ đạo năng thọ khổ bất tư nghì tam muội.

Chư Phật hiện tại bất tư nghì tam muội.

Tứ sự cúng dường bất tư nghì tam muội…

Các vị ấy trang nghiêm thân với một ức một ngàn tam muội như vậy.

Lại còn có tốc tật bất tư nghì tam muội.

Trong một ngày, các vị ấy xuất gia hành đạo, đến dưới gốc cây thành Phật, giáo hóa chúng sanh, làm thanh tịnh Cõi Phật. Lại có Lưu trú đãi duyên bất tư nghì tam muội, được sống lâu vô lượng A tăng kỳ kiếp.

Chúng sanh nào có duyên thì được độ vào cảnh giới Vô Dư Niết Bàn, nhưng Như Lai không vào Niết Bàn, mà lại tạo nhân duyên để hành Bồ Tát đạo.

Lại có thật lực bất tư nghì tam muội, nghĩa là từ Cõi Phật này đến Cõi Phật kia trong khoảng thời gian chốc lát như người khảy móng tay mà đã thọ ký cho vô lượng hằng hà sa chúng sanh và cũng làm cho họ trong ngày đó đều thành Phật. Đó là thần lực của Bồ Tát ở trong thai.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần