Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Trì Nhân - Phẩm Bốn - Mười Tám Chủng Tánh

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT TRÌ NHÂN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẨM BỐN

MƯỜI TÁM CHỦNG TÁNH  

Đức Phật bảo Bồ Tát Trì Nhân: Thế nào gọi là Bồ Tát hiểu rõ các tánh?

Nếu có thể phân biệt về mười tám tánh thì có khả năng tư duy, nhận biết về các pháp quán như: Tận cội nguồn tánh của mắt là không có nhãn giới, đều là không, không có ngã và ngã sở, chẳng thể tồn tại lâu dài.

Tánh của mắt là trống rỗng nên gọi là thật tánh, nương vào thật tánh của mắt nên gọi là không chân thật, đều do tư tưởng mê hoặc tạo thành. Mắt không có đối tượng để thành tựu cũng chẳng nhận biết được các hành là hình tướng của hư không.

Giống như hư không, hết thảy đều không có đối tượng để tạo thành, không có sự nắm bắt cũng chẳng có xứ sở.

Mắt không phải bên trong, bên ngoài cũng không ở chặng giữa, tất cả các nghiệp là giả tạm, không chân thật cũng không thể nắm giữ, đều do nhân duyên sinh khởi, không có quá khứ, hiện tại hay vị lai, đó là thật tánh vốn thanh tịnh, không hình tướng, tội hay phước có ra đều dấy khởi do điên đảo.

Vì duyên hiện tại trói buộc nên gọi là nhãn không giới, không thể thấy, chấp vào mắt, cho là không có giới mà thức ở trong đó nên gọi là nhãn giới, nhãn căn thanh tịnh nên sắc sáng rỡ hợp với ý căn, do nhân duyên trói buộc nên ba pháp hòa hợp là mắt, sắc kết hơp với nhãn giới, mà nhãn giới ấy không phải là giới cũng không phải không là giới, những ai có trí tuệ sáng suốt mới thấu hiểu được.

Do đó, Bồ Tát hiểu rõ nhãn giới tức là thông đạt nghĩa chân thật, vì biết rõ sắc vốn không thể nắm bắt.

Thế nào gọi là hiểu rõ sắc không có giới?

Vì không kết hợp với sắc cũng chẳng xa lìa sắc, không có đối tượng sinh trưởng, tuy bàn luận về sắc giới nhưng không thể nắm bắt sắc vì sắc không có xứ sở.

Vì sao gọi sắc không có giới?

Vì sắc không có bên trong, bên ngoài cũng không ở chặng giữa, chỉ tồn tại giả tạm, do tư tưởng ấy nên mắt mới thấy ánh sáng của sắc, tánh mắt thanh tịnh nên thấy sắc là đẹp, tạm gọi là sắc, không phải là có xứ sở. Ví như gương sáng thì thấy được cảnh tượng, khuôn mặt.

Mắt thanh tịnh không nhơ bẩn nên phản chiếu tưởng là có sắc, tuy thấy trong gương có hình ảnh nhưng hình ảnh ấy từ bên trong xuất ra chứ không phải từ bên ngoài vào, do hình ảnh bên ngoài chiếu vào, lại hiện ra bên trong gương. Mắt cũng như vậy, do thanh tịnh mới thấy được sắc như thấy hình ảnh trong gương.

Do thấy thật tánh của sắc và không sắc nên khong chấp vào cảnh giới, không thể nắm giữ cũng chẳng có đối tượng thành tựu. Sắc tướng ấy vốn không sinh ra nên chúng sinh không thể hiểu được. Nếu thấy được sắc thì mới gọi là hiểu sắc.

Giới cũng không có đối tượng sinh khởi nên không có giới, nhờ hiểu được sắc giới nên hiểu rõ tận cùng gốc rễ của sắc là không có quá khứ, không vị lai hay hiện tại, là trống rỗng, là thật tánh, nên gọi là tất cả đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Sắc giới là như vậy. Nhờ nhãn thức mà quan sát chân thật biết là không có giới.

Thế nào gọi là quán?

Nếu không có nhãn thức thì mắt và sắc không có xứ sở. Vốn từ thanh tịnh mà đến nên mắt và sắc không thể thủ đắc, tất cả đều không thể nắm giữ. Nhãn thức không có pháp, chỉ tạm gọi mà thôi, nhãn thức không tập hợp, không có tướng chân thật.

Giới của nhãn thức cũng do điên đảo xen tạp từ đời trước mà có, bị nhân duyên hiện tại trói buộc cùng với nhân duyên hòa hợp nên gọi là nhãn thức, do đó chúng sinh luôn ở trong điên đảo. Chỉ có Bậc Thánh mới phân biệt và thông đạt được nhãn thức là không có giới.

Vì sao?

Mắt không có đối tượng tạo thành, mười hai nhân duyên sinh khởi là do hòa hợp sinh ra, chỉ là sự tạo tác giả mà có, tạm gọi là nhãn thức. Ưa thích sự vận hành của thức và khởi lên các sự chứa nhóm hợp thành thức, tuy có đối tượng để thấy nhưng đều hư vọng, không chân thật, hình tướng chỉ là tạm có, do nhân duyên hiển hiện mà thôi.

Vì giảng nói về nhãn thức khiến chúng sinh hiểu rõ nên Như Lai đã diễn nói, phân biệt về các hình tướng, do các tưởng hợp thành nên gọi là thức, không có gì thành mắt, nhờ nguồn gốc thức thanh tịnh nên biết tướng do các hành mà có gọi là đối tượng thấy, do tập hợp nhãn thức như vậy nên gọi là không có giới.

Vì sao?

Vì mắt không mong rằng ta sẽ nắm bắt nhãn thức và cũng không thể hiểu rõ ràng về chúng. Sắc và thức không đạt đến thật tướng.

Vì sao?

Vì không có đối tượng để tạo thành, chỉ tạm mượn ngôn từ để hiển bày ý nghĩa, vì cứu giúp những chúng sinh nguy khốn. Ý niệm là lĩnh vực, nguồn gốc của đối tượng hoạt động là mắt, là tướng tự nhiên của thức.

Ba pháp: Nhãn giới, sắc giới và thức giới nhóm họp thành các giới, vì nhân duyên giảng nói các pháp về tướng của nghiệp… nên tạm nói có mắt, sắc và thức. Đó là tư duy.

Nhờ điều này để khiến chúng sinh hội nhập, đạt đến chỗ không còn thấy có mắt, không thấy có sắc giới cũng chẳng có thức giới. Giáo hóa như vậy là đoạn trừ các kiến chấp. Nếu có khả năng hiểu rõ, đạt đến các phương tiện để giác ngộ của Như Lai thì có thể thông suốt tất cả ba cõi là không có cõi.

Vì sao?

Vì chấp vào các cõi nhưng thật sự không có cõi, sắc không thể nam bắt, tai, thanh và thức giới cũng vậy, đối với mũi, hương và thức. Lưỡi, vị và thức. Thân, xúc và thức. Ý, pháp và thức… mà suy lường, tư duy và quan sát đều không có đối tượng để tạo thành. Ý giới cũng là trống rong, không chân thật, thảy đều không thật có.

Lại nữa, các chủng loại ấy đều không có đối tượng tạo thành. Ví như có người đem hạt giống gieo xuống đất, muốn chúng nảy mầm nhiều thì phải nhờ các nhân duyên như nước, ánh sáng mặt trời chiếu xuống, chỉ riêng hạt giống thì không thể tạo ra mầm, hạt giống ấy cũng không thể cùng mầm hợp thành, mà nhờ hạt giống sinh ra mầm, hạt giống không tách rời mầm, mầm cũng không thể tách rời hạt giống.

Ý giới cũng vậy, từ ý nghiệp này mà hiển hiện các loại nghiệp khác, nên nói là ý giới. Ý không rời niệm, niệm cũng không rời ý, tuy ý giới có nhân duyên riêng biệt hợp thành.

Ý giới ấy không phải bên trong, bên ngoài hay chặng giữa, đều do những tạo tác vốn có đời trước tạo thành và do ý nghiệp nương nơi giới mà hợp thành cùng với nhân duyên hiện tại sinh ra, cho nên tạm gọi là ý. Từ chính mình sinh khởi đủ tất cả tội, phước.

Mười hai duyên khởi là hiển bày có đối tượng giảng nói, cho nên gọi là ý giới. Dùng phương tiện để giảng nói là muốn chúng sinh hiểu rõ tận cùng nguồn gốc ấy, nếu cầu chân thật rốt ráo thì không có nguồn gốc cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vì sao?

Vì tâm tự buông lung không có xứ sở. Nếu có nhận thức được những ngôn từ hòa dịu thì ý giới ấy cũng chẳng phải là chân thật, không có quá khứ, hiện tại hay vị lai. Người sáng suốt hiểu rõ ý giới và pháp giới đều không thật có.

Thế nào là quan sát thật tướng của pháp giới?

Đó là hết thảy đều không thật có, không thể nắm bắt. Pháp giới không tạo thành cũng không có hình tượng, chỉ do điên đảo mà kiến lập, không có người hay mạng sống, từ hư giả mà sinh khởi sự nhận thức, do đó gọi là pháp giới.

Thế nào là hiểu rõ pháp giới nhưng pháp giới không hiển bày?

Pháp giới là không thật có, đều từ nhân duyên phát sinh. Vì do nhân duyên sinh nên gọi là không có pháp giới. Vì pháp giới do nhân duyên hợp thành nên luôn biến chuyển, điên đảo.

Như Lai Chí Chân thông đạt cảnh giới chúng sinh cho nên gọi là pháp giới. Đó là sự tập hợp giả tạm, tên gọi cũng không thật. Pháp giới không phải bên trong, không có bên ngoài cũng chẳng phải chặng giữa.

Song, vì dứt trừ kết sử, chấp vào pháp thiện, bất thiện và đoạn trừ tất cả các sự bàn luận về giáo lý, cho nên gọi là thực hành. Sự bàn luận là không thật có, pháp giới cũng trống rỗng, không có sự thành tựu hình tướng, tên gọi cũng chỉ tạm có mà thôi.

Pháp cũng như vậy, không có đối tượng tạo nên hình tướng, vì đoạn dứt những tư tưởng chấp về pháp nên mới hiện bày, giảng nói, nhưng hết thảy đều không có cảnh giới, như trước đã nói.

Không có duyên quá khứ, hiện tại hay vị lai mà chỉ do kiến chấp trói buộc, chúng sinh không hiểu được chúng từ duyên hợp thành. Người có trí tuệ thì thông đạt rõ ràng, pháp giới là không có cảnh giới, không nhiều, không ít, chỉ là phương tiện mà nói pháp giới.

Người nào hiểu tường tận về pháp giới thì trừ sạch mọi đối tượng sinh khởi trong tất cả ba cõi. Do không vướng mắc các pháp nên không giảng nói về pháp giới hoặc nói về nhân duyên, tướng, dụng hay xứ sở của các pháp. Đó gọi là rốt ráo. Người có trí tuệ cho rằng tướng không có đối tượng sinh khởi.

Vì sao?

Vì tướng của pháp giới không có đối tượng tạo thành, pháp giới không có xứ sở, không có xứ sở cũng chẳng phải không có xứ sở, không có chỗ hòa hợp, an trụ cũng chẳng phải không an trụ. Quan sát, hiểu rõ pháp giới hoàn toàn không có đối tượng trụ chấp.

Pháp giới không sinh ra, không phải chủ thể, không phải chỗ tập hợp, không phải tập hợp nên cũng chẳng tan rã. Pháp là không có đối tượng tạo lập cũng không thành tựu. Nếu có thể quan sát về pháp giới như vậy thì xét về ý thức mà không thấy có thức.

Như vậy, nên quan sát như thế nào?

Nên quán không có đối tượng sinh khởi cảnh giới gọi là thức giới.

Vì sao?

Xét về ý thức thì không thật có, là giả tạm không thật, do điên đảo mà thành, từ ý niệm mà có ra nên gọi là ý thức, do sự tạo tác của phàm phu thiếu trí tuệ, chỉ có bậc Hiền Thánh mới thông đạt rõ ràng mà thôi.

Do hai pháp trên là chỗ duyên dựa cho ý thức nên chúng sinh không thể hiểu rõ được. Chỉ có bậc trí mới có thể phân biệt hết thảy đều là hư vọng, từ tưởng không chân chánh mà sinh khởi ý thức.

Cảnh giới của ý thức ấy không có gì đặc biệt, chỉ là muốn giảng nói tường tận nên tạm mượn ngôn ngữ. Sự vay mượn ấy là vì chúng sinh không hiểu được ngọn nguồn ý thức là không có cảnh giới, do nhân duyên chứa nhóm, xoay chuyển không bờ bến.

Các bậc Hiền Thánh không tìm cầu thức giới, không chấp ở trong, ở ngoài cũng chẳng phải ở giữa. Người có trí tuệ hiểu rõ ý thức ấy nhưng không thấy có ý thức mà thấy chúng đều từ nhân duyên, từ điên đảo dấy khởi. Do hai nhân duyên này mà có những chúng sinh từ tư tưởng không chân thật nên chấp nhận hư dối, đều từ sự vận dụng của tâm, theo tướng thế gian nên có ý thức.

Tâm của chúng sinh vốn từ nhân duyên này mà có. Ý thức không có quá khứ, hiện tại hay vị lai. Xét về nguồn gốc của ý thức cũng không có đối tượng chấp giữ. Ý thức tồn tại không có quá khứ, vị lai cũng chẳng có đối tượng để kiến lập, ý không có đối tượng để nắm giữ.

Vì sao?

Ý thức vốn thanh tịnh, không có hai, không tướng cũng không phải hai tướng, tuy có chỗ để tồn tại nhưng không thể thấy. Người có trí tuệ hiểu rõ ý thức là như vậy. Những ai biết ý thức như thế thì không thấy có pháp để giảng nói, không có sự kết hợp cũng chẳng có sự tách rời. Không có tướng sinh khởi cũng chẳng có tướng giáo hóa, chỉ riêng Hiền Thánh mới hiểu rõ.

Thế nào là thức giới?

Nghĩa là không từ đâu sinh ra cũng không có nhân duyên.

Vì sao?

Vì ý thức giới từ nhân duyên sinh khởi, xét về gốc ngọn của chúng thì không thể thấy. Người có trí tuệ hiểu rõ sự tạo thành ý là như vậy, vốn không có tạo tác, do chúng sinh tự tạo ra, không có đối tượng sinh khởi. Do chúng sinh tạo ra nên tướng cũng không có đối tượng sinh khởi.

Đức Phật bảo: Này Bồ Tát Trì Nhân! Bồ Tát nào quan sát như vậy thì thông đạt về ý thức và cũng không chấp giữ thức.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần