Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tùng đâu Thuật Thiên Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh Bồ Tát Xử Thai - Phẩm Hai Mươi Hai - Tứ đạo Hòa Hợp
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẬT THUYẾT KINH BỒ TÁT TÙNG
ĐÂU THUẬT THIÊN GIÁNG THẦN
MẪU THAI THUYẾT QUẢNG PHỔ
KINH BỒ TÁT XỬ THAI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM HAI MƯƠI HAI
TỨ ĐẠO HÒA HỢP
Lúc ấy, trong chúng hội có Bồ Tát tên Biến Quang, trí tuệ thông đạt, trụ vào quả vị bất thoái chuyển, tâm thệ nguyện rộng lớn không thể nào lường tính, được Chư Phật khen ngợi chẳng phải một, chẳng phải hai, có công đức vô lượng với hằng hà sa Phật, chứa nhóm hạnh vô úy, thường dạo khắp vô lượng Cõi Phật, cùng học với tám vị:
1. Bồ Tát Bất Tà Kiến.
2. Bồ Tát Trực Ý.
3. Bồ Tát Chúng Tướng.
4. Bồ Tát Khuất Thân.
5. Bồ Tát Giải Thoát.
6. Bồ Tát Giải Phược.
7. Bồ Tát Ấn Khả.
8. Bồ Tát Thệ Nguyện.
Từ vô số kiếp trụ vào địa Tận, đắc Bất Thoái Chuyển.
Bấy giờ, Bồ Tát Biến Quang thưa Phật: Làm thế nào Đại Bồ Tát nhập vào bốn loại đạo mà không có trước sau, thành tựu đạo Vô Thượng Đẳng Chánh Giác?
Bồ Tát ngày đêm tư duy thấy dục như lửa, tưởng tri niệm đều tận những hành pháp điên đảo. Thấy lợi pháp đầu tiên được quả A Na Hàm, thì ngay ở cung Trời ấy thủ đạo minh chứng.
Như vậy không bao lâu, có lúc Bồ Tát ở quả vị trên quan sát xuống Cõi Dục giống như đống bọt nước, đoạn trừ ba kiết sử, xa lìa ba ác đối với hữu, vô hữu. Hoặc có Bồ Tát đắc căn, đắc lực, lập chí tự tại, phá hữu diệt vô, không còn bốn đẳng tâm, kia đây đều bình đẳng không có tưởng ngã, chẳng quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng có Đẳng chánh giác.
Vậy những vị ấy đối với đạo vô thượng có gì sai khác?
Đức Phật dạy: Lành thay! Những câu hỏi này Ta sẽ phân biệt rõ ràng đầy đủ cho ông.
Sao gọi là nhân duyên của nhân duyên Bồ Tát?
Sao gọi là nhân duyên của nhân duyên?
Sự xúc chạm của vòng xuyến nơi hai tay gọi là nhân duyên của nhân duyên.
Người kia dạy ta tiếp thu nhờ nơi âm thanh, tiếng nói giáo hóa, gọi là Thanh Văn, không có thầy, không có trí, không nhờ kia đây, nên gọi là Phật Duyên Giác.
Lại nữa, đối với đạo này, đạo kia, Đại Bồ Tát học hỏi quyết nghi với nhau, được chứng hay không chứng đều trôi theo năm đường. Đó gọi là giác, cũng không thấy giác, cũng không thấy không giác, không một, không hai, đó là không hai nhập.
Đại Bồ Tát với bản hạnh tu tập hiểu rõ Duyên Giác, với hữu dư, vô dư kiết sử đều đoạn hẳn, đó là không hai nhập.
Tất cả các loại chúng sinh hiểu rõ đều là vô thường. Thân chẳng phải của ta, trong ngoài đều là trống không. Đó là không hai nhập.
Ân đức của Phật lan rộng khắp nơi không bờ bến, lấy khổ tập đạo để đạt đến vô vi, đó là không hai nhập.
Bốn đẳng tâm đại bi che trùm hết tất cả, chúng sinh ngu si được đến với đạo chân thật, đó là không hai nhập.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Thanh Văn, Phật Bích Chi
Là tên mượn để gọi
Như người đại chiến thắng
Thắng giặc là trên hết.
Không ai sánh bằng Phật
Một mình vào ba cõi
Điều tâm chiến thắng ma
Sức nhẫn đến Niết Bàn.
Luân chuyển khổ sinh tử
Mạng như lửa đá mài
Trải qua ức trăm ngàn
Không biết khi nào thoát.
Phật vốn không danh hiệu
Vì do người tôn trọng
La hán, Phật Bích Chi
Chỉ một không có hai.
Như Phật Định Quang kia
Thọ ký ta vô thượng
Sau chín mươi mốt kiếp
Ở trong hiền kiếp này.
Bậc tối thắng thứ tư
Hiệu là Thích Ca Văn
Đời vạc sôi năm trược
Không hiếu thuận cha mẹ.
Sát hại A La Hán
Không vâng lời Phật dạy
Những nơi ta từng ở
Chẳng một, chẳng hai đường.
Trong sáu đường phiền não
Trải qua vô số kiếp
Đầu, giữa, cuối không ngủ
Kinh hành tu đức hạnh.
Kỉnh tâm tự giác ngộ
Lìa chấp trước ba hữu
Hạnh nguyện xưa của Phật
Không xả, thủ diệt độ.
Một thân, một thần thức
Giống mình không có khác
Cực khổ trong số kiếp
Tinh thần bị suy sụp.
Vì họ, không vì mình
Nên được thành Phật Đạo
Ta là nhất thiết trí
Dạy cho người chưa dạy.
Tuệ thông không chấp trước
Một tiếng dứt nghi ngờ
Ba đời Tu Đà Hoàn
Đạt đến đạo vô vi.
Huống chi người đệ nhất
Theo Phật không còn nghi
Các đệ tử của ta
Hữu học và vô học.
Bốn đẳng cứu vớt khổ
Không khởi, không sinh diệt
Vốn do tư tưởng sinh
Lại do tư tưởng diệt.
Phi ngã tư tưởng sinh
Phi ngã tư tưởng diệt
Hành vốn do có căn
Trôi nổi chẳng một mối.
Căn đoạn dứt tư tưởng
Không còn niệm căn bản.
Khi Đức Thế Tôn nói kệ xong, có mười hai na do tha chúng sinh đều phát tâm cầu đạt đạo bình đẳng vô thượng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba